.
THĂP NÉN HUƠNG TƯỞNG NIỆMI 50 NĂM QUỐC HẬN 30-4



Đức Giáo Hoàng Francis Qua Đời Vào Thứ Hai Phục Sinh, Hưởng Thọ 88 Tuổi 1936-2025

Monday, 21 April 2025

Chủ đề 50 năm:“Sổ tay” viết lại – Người Việt tàn sát Người Việt ((Bài 4)

 

50 năm sau Sổ tay viết lại 4

MÙA CHỊU NẠN, MÙA GIẢI PHÓNG


I. Chuyện xưa

clip_image002

Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp.

Ngày 26 tháng 3 năm 1975, họa sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm họa hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại tòa soạn, hỏi: Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?

Sắp đến Lễ Phục Sinh, lại gặp lúc tình hình đất nước quá bi đát, nhất là sau những trận mưa pháo tàn sát dân quân di tản từ Pleiku-Kontum mới xảy ra trên đường số 7, được mô tả tỉ mỉ qua những bài Nguyễn Tú gửi về, tôi trả lời: Ông theo đạo Phật, nhưng chắc cũng biết Tượng Chịu Nạn của Công Giáo, Chúa bị đóng đinh trên Thập Giá như thế nào. Ông có thể vẽ cảnh này, nhưng trên Thập Giá, thay vì Chúa, là Việt Nam bị đóng đinh.

Tôi còn góp một số chi tiết: Phía Bắc VN, giáp giới với Tàu, giống hình nón, có thể vẽ thành cái nón cho người dân Việt khốn khổ đội. Thân hình người bị đóng đinh oằn đi vì đau đớn, là bản đồ VN. Phía dưới, “vòng số 3” gồm cái rún là Sài Gòn, và đồng bằng Sông Cửu Long. Thêm tay chân chỉ còn da bọc xương, là có một cảnh “Việt Chịu Nạn” hoàn hảo.

Qua hình ảnh quen thuộc về cuộc khổ nạn của Chúa, Giáo Dân còn thấy mấy tên lính, một tên cầm giáo, đứng dưới chân Thập Giá, ngửa mặt nhìn lên. Theo dõi khi nào nạn nhân thực sự qua đời. Nhóm này thường được gọi chung là “quân dữ”.

Tôi đề nghị với Ngọc Dũng, đám “quân dữ” này, ông chỉ cần vẽ ba tên: Một tên, mặc quần áo cao bồi, đeo súng ngắn; ông biết là ai rồi. Hai tên kia, mập, y phục và dáng vẻ lãnh tụ; ông cũng biết họ là ai rồi. Thế là đủ.

Đã có đề tài, Ngọc Dũng vui vẻ chào, vội ra về, để vẽ.

Đêm hôm đó, ba người của Chính Luận bị bắt, trong đó có tôi.

clip_image004

Trên báo Chính Luận, số đề ngày 28-3-75, phát hành chiều 27-3, mẩu tin một cột bên cạnh tên báo, viết:

Đêm qua nhà chức trách Bắt giữ 3 ký giả NHẬT BÁO CHÍNH LUẬN

SAIGON. 27-3,- Đêm qua, nhà chức trách đã bắt giữ ba ký giả hiện đang cộng tác với nhật báo Chính Luận. Ba ký giả đó là các ông Đậu phi Lục, Nguyễn hữu Dương và Đinh từ Thức.

Gia đình ba ký giả trên đã cho biết việc bắt giữ xảy ra vào khoảng 1 giờ đêm sau khi xét nhà lâu khoảng 1 tiếng đồng hồ. Cũng theo tin trên, biên bản xét nhà ghi nhận không thấy có tang chứng gì về tình trạng bất hợp pháp của các người bị bắt.

Chúng tôi đã không bị bắt vì hí họa của TUÝT, mà là nạn nhân của “chiến dịch Trường Giang”, một cuộc tảo thanh loại trừ “âm mưu đảo chính”. Một “âm mưu” tưởng tượng của vị tổng thống cực kỳ lo sợ đảo chính, sau khi chính ông đã tham dự và chứng kiến hậu quả cuộc đảo chính đẫm máu 1963 (Tôi đã viết về điều này trong loạt bài “Từ trại giam đến trại Guam” vào tháng 2/2015).

Cũng trên trang 3 cùng số báo này, có đăng biếm họa “Việt Chịu Nạn” của TUÝT.

Tất nhiên, tôi đã không được nhìn thấy bức biếm họa trên đây cho đến mấy chục năm sau, khi tìm lại được Chính Luận trong kho sách của Quán Ven Đường, khi cả Ngọc Dũng và những người bị bắt với tôi đều không còn nữa. Nửa thế kỷ sau, nhìn hình vẽ cũ, không phải chỉ nhớ đến những người bạn ở Chính Luận đã ra đi, mà nhớ đến cả một “Mùa Chịu Nạn” của hàng trăm ngàn người Việt đã tức tưởi ra đi. Ra đi trên núi rừng Trường Sơn; với niềm tin bị nhồi sọ là “giải phóng Miền Nam”, ra đi trên “Đường Máu số 7”; để khỏi bị “giải phóng”, và ra đi trên Biển Đông; liều chết để tìm lẽ sống. Buồn khôn tả!

Chúa chịu nạn, sau ba ngày, sống lại.

Việt chịu nạn, sau 50 năm, bao giờ thoát nạn?

***


II. Chuyện nay

Phần trên là chuyện cũ ở VN.

Phần này là chuyện hiện tại.

Trước hết, mời quý bạn đọc coi một biếm hoạ, do Trí tuệ Nhân tạo (Artificial Intelligence = AI) vẽ, theo lời yêu cầu của người viết, mô tả hoàn cảnh nước Mỹ vào thời gian trước cuộc bầu cử năm ngoái.

clip_image006
Biếm họa “Uncle Sam vấp ngã” được AI vẽ theo lời chỉ dẫn của tác giả

Cuối loạt bài về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 2024, người viết đã đề cập tới hình ảnh nước Mỹ như một người khổng lồ nặng 250 kí lô, bị vấp ngã. Vấp ngã là chuyện thường xảy ra trong cuộc sống mọi người. Với bọn trẻ, mỗi khi ngã, có thể bật dậy ngay, phủi bụi trên quần áo, rồi tiếp tục cuộc chơi. Nhưng với người già, hoặc thân thể quá đồ sộ, chẳng may bị ngã, thường không tự mình dậy được, cần phải có nhiều người hợp sức vực dậy. Nếu không được cứu cấp kịp thời, có thể nguy tới tính mạng.

Những nền dân chủ non trẻ, như Đại Hàn, có sức phục hồi vô cùng mau lẹ. Mỗi khi bị vấp ngã, có thể bật dậy ngay. Thí dụ gần nhất, mới tháng 12 vừa qua, Tổng Thống Đại Hàn Yoon Suk Yeol, cảm thấy bị bó tay, khó làm việc, vì đảng cầm quyền của ông thuộc phe thiểu số tại Quốc Hội. Chả hiểu nghe ai xúi dại, vào hồi 10 giờ đêm tối Thứ Ba, mùng 3 tháng 12 năm 2024, giống một cuộc đảo chánh qua làn sóng điện, Tổng Thống Yoon đã truyền đi một thông điệp làm sửng sốt mọi người. Mở đầu, ông tấn công đảng đối lập về đủ thứ tội, như tham những, bất tài, và quan trọng nhất, là đã ngăn cản, làm trì trệ những kế hoạch an dân giúp nước của ông. Cho nên, ông phải công bố tình trạng Thiết Quân Luật, để khai thông những bế tắc, hầu có thể đem lại hạnh phúc và thịnh vượng cho dân, cho nước. Tiếp theo, để thực hiện Lệnh Thiết Quân Luật, là lệnh đặt sinh hoạt truyền thông dưới sự kiểm soát của quân đội. Cấm tụ họp, cấm biểu tình… Cả Quốc Hội cũng bị bao vây.

Bất chấp giữa đêm Đông giá lạnh, dân chúng đã truyền tin dữ cho nhau, ùn ùn kéo tới Quốc Hội. Nhiều dân biểu vượt vòng vây, trèo tường vào phòng họp. Sau nửa đêm, đã có đủ túc số, mở phiên họp bất thường, và đến 1 giờ 02 sáng mùng 4, Quốc Hội đã biểu quyết chặn Lệnh Thiết Quân Luật của Tổng Thống. Đến 4 giờ sáng, Tổng Thống phải tuyên bố rút lại Lệnh này. Cuộc xáo trộn chỉ tồn tại trong 6 giờ.

Nhưng không phải thế là xong; kẻ làm ẩu phải chịu hậu quả. Năm ngày sau, 7-12, 24, Tổng Thống Yoon Suk Yeol đã bị Quốc Hội đàn hạch (impeached), với hàng chục Dân Biểu thuộc đảng của tổng thống đã bỏ phiếu cùng phe đối lập. Sau đó ít ngày, ông đã bị bắt, rồi được tại ngoại. Vào ngày Thứ Sáu, 4 tháng 4 năm 2025, toàn thể Tối Cao Pháp Viện đã ra phán quyết chót: Truất quyền của Tổng Thống. Sẽ bầu tổng thống mới trong 60 ngày. Cậu bé Dân Chủ Đại Hàn đã giải quyết một chuyện quan trọng như vậy, chỉ trong đúng bốn tháng.

Trong khi một nền dân chủ già nua và nặng nề như Hoa Kỳ, cũng đã bị vấp ngã, và mất bốn năm, vẫn không ngồi dậy được.

Qua bầu cử tổng thống tháng 11 năm 2020, Joe Biden đã thắng cử rõ ràng, bằng cả phiếu cử tri đoàn: 306 trên 232, và phiếu đại chúng: 81 triệu 283 ngàn 501 phiếu, so với 74.223.975 phiếu của người về nhì. Cuộc bầu cử đã diễn ra khi ông Trump là Tổng Thống, có nghĩa là khó có âm mưu gian lận nào có thể qua mặt được hệ thống kiểm soát của chính quyền đương nhiệm. Nhưng người thất cử đã nhất định không chịu thua, lớn tiếng tố cáo rằng phần thắng đáng lẽ thuộc về mình, đã bị đối phương ăn cắp, mặc dù không nêu được bằng chứng gian lận nào. Cuối cùng, ông đã hô hào một cuộc biểu tình lớn, mang danh “chặn ăn cắp – stop the steal”, đưa đến bạo động tại Quốc Hội vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, nhằm mục đích ngăn chặn thủ tục chính thức chấp nhận kết quả bầu cử. Có xung đột với nhân viên công lực, có người chết, và hư hại tài sản. So với vụ ban hành Lệnh Thiết Quân Luật tại Đại Hàn ngày 3-12-2024, vụ 6-1-2021 trầm trọng hơn nhiều. Nhưng trong bốn năm, chính quyền Biden kế nhiệm vẫn không giải quyết dứt khoát được vụ này. Hệ quả là, trớ trêu thay, kẻ phá luật lệ đã có thể tiếp tục cuộc chơi, trở lại nắm guồng máy… thi hành luật!. Đó là hình ảnh người khổng lồ ngã, mà không dậy được.

Sau bầu cử, vào cuối tháng 1-2025, Chú Sam giống người bị đột quỵ, chỉ có nửa người còn cử động được, nửa kia bất động. Đặc biệt, Chú trong tình trạng khỏa thân, phơi bày trước mắt mọi người đầy đủ các chi tiết vốn được che đậy trên thân thể mình.

Trước kia, Bạch Ốc, nhất là Phòng Bầu Dục, nơi làm việc của tổng thống, được coi là chốn thâm cung bí sử. Hiếm người biết rõ mọi sự diễn ra ở đó, ngoài những tấm hình đã được chọn lựa kỹ, hay bản thông cáo báo chí được chính thức công bố. Tổng Thống Roosevelt từng bị tê liệt, mà trong hàng chục năm, chẳng mấy người dân biết ông phải ngồi xe lăn. Ngay cả Đệ Nhất Phu Nhân Hillary, cũng không biết Tổng Thống Clinton đã tiếp ai ở đó. Vậy mà bây giờ, chẳng còn gì che đậy nữa. Qua màn hình, người dân có thể nhìn rõ mọi sinh hoạt diễn ra ở Phòng Bầu Dục. Có lúc giống như cảnh một vườn trẻ, người lớn nói năng, khua chân múa tay trong một cuộc họp báo, bên cạnh trẻ con chơi đùa. Có lúc giống cảnh tranh cãi hơn thua tại một sòng bài, giữa hai vị nguyên thủ quốc gia, qua cuộc đối thoại gay gắt: — Anh có con bài nào đáng giá không? – Tôi không chơi bài! – Không chơi bài thì nhà anh vác mặt đến đây làm gì? Đại loại là như thế!

Qua cảnh trên đây, dân coi TV chợt nhớ ra, đương kim Tổng Thống vốn là một chủ sòng bài vĩ đại. Bảy chục năm trước, tại VN, Vua Bảo Đại đã trao vận mệnh Quốc Gia cho ông chủ sòng bài Bảy Viễn, đi đến chấm dứt Nguyễn Triều. Đặc điểm của những tay tổ cờ bạc, một khi được những người ngây thơ hùn vốn để mong “làm giàu tắt”, thường chơi những nước bài rất bạo. Vì đó là tiền bá tánh, không phải tiền túi của mình. Thắng, mình hưởng trước. Thua, mình sướng tay và thiên hạ trắng tay.

Năm 1955, Nhà Nguyễn diệt vong, do Vua Bảo Đại trao lá bài chủ cho chủ sòng. Có “King” trong tay, Chú Bảy ra tối hậu thư, buộc đối phương nhượng bộ trong 48 giờ. Nhưng Nam VN đã thoát hiểm trong gang tấc, và sống thêm được 20 năm. Theo báo chí Mỹ hồi đó, là nhờ Phép Lạ của Chúa.

Bây giờ, Mỹ là một nước dân chủ; không ai có lá bài King; chủ quyền thuộc về toàn dân. Qua cuộc bầu cử năm ngoái, 77 triệu, 302 ngàn, 580 cử tri đã trao vận mệnh quốc gia, cùng vận mệnh mình và con cháu mình, vào tay một chủ sòng bài vĩ đại, với hy vọng để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Bây giờ, để thoát hiểm, Mỹ cũng cần một phép lạ. Xin Chúa ban Phước Lành cho Hoa Kỳ!

Nhớ lại biếm họa “Việt chịu nạn” 50 năm trước, người viết cũng muốn có một biếm họa nước Mỹ hôm nay, nhưng TUÝT đã đi rồi, mà mình không biết vẽ. Đành phải nhờ phát minh mới của thời đại là AI vẽ hộ một Uncle Sam vấp ngã, theo điển tích “bộ quần áo mới của Hoàng đế.”

Hì hục một lúc, AI trả lời không thể vẽ theo lời yêu cầu.

Hỏi: Tại sao?

Đáp: Nếu không vẽ Uncle Sam mặc quần áo, thì phải vẽ cả bộ phận sinh dục, nhưng làm như vậy là phạm tội khiêu dâm.

Hỏi: Tránh vẽ bộ phận sinh dục, được không?

Đáp: Không thể!

Hỏi: Tại sao?

Đáp: Tổng Thống đã ký pháp lệnh, quy định tất cả dân Mỹ chỉ có hai giới, nam hoặc nữ. Mỗi người phải có bộ phận sinh dục định hình rõ ràng, để khẳng định giới tính bẩm sinh. Ai không có, hoặc chỉnh sửa nhập nhằng, là trái luật. Có thể bị trục xuất.

Tóm lại, rồi đây, ngoài yêu cầu trình thẻ căn cước, người dân của nước Mỹ đã vĩ đại trở lại, còn có thể bị yêu cầu khỏa thân, để khám xem đích thực là nam hay nữ.

Đó là lý do, dù đã yêu cầu sự giúp đỡ của AI, người viết vẫn không thể có hình Chú Sam bị đột quỵ trong tình trạng khỏa thân.

III. Việt Mỹ cùng giải phóng!

Khi tìm hiểu về chuyện cũ và mới, giữa Việt Nam và Mỹ, người viết bỗng chú ý tới mấy sự việc khá đặc biệt:

Việt Nam xa Mỹ nửa vòng địa cầu, và vốn có thành kiến cho rằng Việt Nam thua Mỹ về nhiều phương diện. Nhưng qua những gì đã được đề cập tới, có những sự việc cho thấy Việt Nam đã đi trước Mỹ khá xa. Chẳng hạn:

– Bảy chục năm trước, Vua Việt Nam đã tin tưởng, trao phó sứ mệnh cứu nước cho một chủ sòng bài nổi tiếng. Bảy chục năm sau, dân Mỹ mới bắt chước điều này.

– Nửa thế kỷ trước, nhà cầm quyền Cộng Sản VN mừng chiến thắng “Giải Phóng Miền Nam” vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhờ biến cố này, hàng triệu người dân VN đã được giải phóng khỏi cuộc sống an cư lạc nghiệp, giải phóng khỏi sự nghiệp gò bó, giải phóng khỏi xí nghiệp, khỏi học đường để đi tù, hay tự do đi vùng kinh tế mới. Thậm chí, nhiều người đã được giải phóng khỏi mạng sống của mình! Tại “trại cải tạo”, hay ngoài biển cả.

50 năm sau, bốn tuần trước “Ngày Giải Phóng” 30 tháng 4 của VN, tại Vườn Hồng Bạch Ốc, Tổng Thống Mỹ cũng chọn “Ngày Giải Phóng” của Mỹ, là ngày mùng 2 tháng 4:

“Thưa các công dân Hoa Kỳ, đây là Ngày Giải Phóng — đã chờ đợi từ lâu. Ngày 2 tháng 4 năm 2025 sẽ được nhớ mãi như là ngày tái sinh của nền kỹ nghệ Hoa Kỳ, ngày định mệnh Hoa Kỳ được tái thu hồi, và là ngày mà chúng ta bắt đầu làm cho nước Mỹ giàu có trở lại”*

Ngày Giải Phóng của Mỹ ra đời sau Ngày Giải Phóng của VN 50 năm. Ngày nào cũng có phần tốt, phần xấu. Phần tốt là những lời hứa chưa thấy, và có thể không bao giờ thấy. Phần xấu đã thể hiện tức thì. Ví dụ, chỉ vài ngày sau lời hứa “chúng ta bắt đầu làm cho nước Mỹ giàu có trở lại”, thị trường chứng khoán Mỹ đã bị xuống dốc, nghèo hơn vài ba ngàn tỉ! Trong khi đó, hàng chục ngàn công chức chính ngạch đã được “giải phóng” khỏi công việc vốn được bảo đảm là không thể bị sa thải vô cớ. Đồng thời, hàng trăm sinh viên đại học nước ngoài, đã cố tìm tới học hỏi những cái hay, cái đẹp, nhất là tinh thần Tự Do, Dân Chủ tuyệt vời của Mỹ đã được thể hiện qua các vĩ nhân, như Washington, Lincoln… đã bị thu hồi chiếu khán, được “giải phóng” khỏi các khuôn viên Đại Học, được tức thì cho về nước bằng máy bay miễn phí.

Ngay cả Nữ Thần Tự Do, vốn ra đời tại Pháp, do cảm kích về tinh thần cao đẹp của Mỹ, đã tới đứng tại Đảo Tự Do (Liberty Island) ở Cảng New York, từ hơn trăm năm qua, ngày đêm giơ cao đuốc Tự Do, soi đường cho những ai trên thế giới muốn tìm tới Tự Do. Để tránh bị nạn giải phóng trên đất Mỹ, dân Pháp đã nghĩ tới việc vận động đón ượng trở lại Châu Âu.

Dù sao, những ai đã hoàn toàn tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Chính Quyền Mỹ hiện nay, vẫn có thể hy vọng rằng, chỉ một thời gian ngắn nữa, Mỹ có thể đuổi kịp Việt Nam.

Đinh Từ Thức

 https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2025/04/14/50-nam-sau-so-tay-viet-lai-4/

——–

* Nguyên văn lời tuyên bố cùa Tổng Thống Mỹ tại Vườn Hồng Bạch Ốc, ngày 2 tháng 4, 2025: “My fellow Americans, this is Liberation Day – waiting for a long time. April 2, 2025 will forever be remembered as the day American industry was reborn, the day America’s destiny was reclaimed, and the day that we began to make America wealthy again.”

Chủ đề 50 năm:“Sổ tay” viết lại – Người Việt tàn sát Người Việt (Bài 3)

 

50 năm sau “Sổ tay” viết lại 

Người Việt tàn sát Người Việt (Bài 3)

Pham Huan
Ký giả quân đội Phạm Huấn (Hình PH)
 
Nguyen Tu
Ký giả dân sự Nguyễn Tú (Hình BBC)
 
21-3-75: Thiệt hại về người và võ khí
 
Theo ghi nhận của Phạm Huấn vào ngày thứ 5 của cuộc di tản trên Liên Tỉnh Lộ số 7: “80% lực lượng chiến xa nặng M-48, M-41 và những khẩu đại bác khổng lồ 175 ly của Quân Đoàn II bị tiêu huỷ. Hàng trăm ngàn tấn chiến cụ trở thành tro bụi. Đoàn quân tinh nhuệ mũ nâu Biệt Động Quân, với 7 Liên Đoàn, quân số khoảng 10 ngàn, bị thiệt hại gần một nửa. Đa số, nếu không muốn nói là hầu hết, không được chiến đấu trực diện với quân thù trong trận cuối cùng. Họ chết tức tưởi, oan nghiệt bởi những trận mưa pháo của Bắc quân!”
 
17 giờ 30: “4 trái bom của Không Quân (VNCH) thả trúng vị trí phòng thủ của 2 Tiểu Đoàn BĐQ có chiến xa bảo vệ – 4 chiến xa M-48 bị cháy. BĐQ thiệt hại rất nặng.”
 
22-3-75: Mặt trận Khánh Dương bùng nổ. Khánh Dương là một quận ở phía Đông Ban Mê Thuột, phía Nam Phú Yên, và Tây Bắc Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà. Kế hoạch của Tổng Thống Thiệu là rút từ Cao Nguyên Kontum-Pleiku ở phía Bắc xuống duyên hải, đánh chiếm lại Ban Mê Thuột, rồi cố giữ từ Tuy Hoà, xuống phía Nam. Lãnh thổ VNCH sẽ còn khoảng từ Vĩ Tuyến 12 tới Cà Mâu. Nhưng Bắc quân đã dốc toàn lực, mở mặt trận Khánh Dương, tiến thẳng xuống Nha Trang.
 
Theo Phạm Huấn: “22-3-75, ba Sư Đoàn chính quy Cộng Sản Bắc Việt kéo về Khánh Dương, với ý đồ tiến thẳng xuống miền Duyên Hải, và đánh chiếm Nha Trang. Nha Trang mất, đương nhiên Bình Định Phú Yên mất theo”.
 
“Đúng 7 giờ 30 sáng, một “trận địa chấn” kinh hồn. Hàng ngàn trái đại bác của địch nã vào trên tuyến phòng thủ. Sau đó là chiến xa, và biển người”.
 
“9 giờ 05, Cộng quân bắn đại bác 122 ly vào Chi Khu Khánh Dương. Có báo cáo 12 chiến xa BV xuất hiện gần Khánh Dương. Địch không nguỵ trang, tiếp tục tiến về Khánh Dương”.
 
10 giờ, Lực lượng Chi Khu Khánh Dương bỏ chạy.
 
11 giờ 45: Nhẩy Dù yêu cầu Không Quân đánh một đoàn chiến xa BV, khoảng 20 chiếc, đang tiến về phía đèo M’Drak.
 
14 giờ 00: Một phản lực cơ rớt tại mặt trận Khánh Dương.
 
14 giờ 15: Thêm 7 chiến xa BV xuất hiện tại Bắc Khánh Dương.
 
16 giờ 00: Tại mặt trận Khánh Dương, có rất nhiều chiến xa đủ loại của BV xuất hiện. Phía ta, chỉ có Thiết Vận Xa M-113 chở quân; không có chiến xa nào thuộc loại M-48, M-41.
 
Ghi nhận vào cuối ngày:

- Đoàn quân di chuyển về Phú Yên vẫn ngưng tại chỗ.
- Địa Phương Quân Ninh Thuận và Khánh Hoà bị thiệt hại nặng.
- Mặt trận Khánh Dương nặng nề. Chiến xa và những đoàn xe chở Cộng quân tiến tới từ khắp hướng: Bắc, Đông và Tây. Nhờ các phi công phản lực A-37 đã chặn được sức tiến quân vũ bão của địch.
 
Cùng ngày 22 tháng 3, Nguyễn Tú ghi lại tình cảnh của hàng ngàn người dân khốn khổ, đi theo đoàn quân di tản từ Cao Nguyên xuống Duyên Hải. Qua bài báo 3 cột trang nhất, tựa đề Cả trăm ngàn người kẹt lại Cung Sơn đang đỏ mắt nhìn về phía biển, trên Chính Luận , số báo đề ngày 25-3-75, nguyên văn như sau:

CUNG SƠN, 22-3.- Đoàn quân xa và dân xa di tản từ Kontum, Pleiku, Phú Bổn từ Chủ Nhật 16-3 đã tới địa phận Sơn Hoà thuộc tỉnh Phú Yên. Quận lỵ quận Sơn Hoà mang tên Cung Sơn, cách Tây tỉnh lỵ Tuy Hoà khoảng 60cs. Hiện còn ba đoàn gồm hàng ngàn quân và dân xa đậu tại ba đoạn khác nhau trên Tỉnh Lộ 7, giữa khoảng Cung Sơn và Tuy Hoà.
 
Các đoàn xe đã phải đổ hai cái dốc trước khi tới bờ Sông Ba để qua sông sang Quận Hiếu Xương, cũng thuộc tỉnh Phú Yên. Hai cái dốc đó, một cái dốc tới 60 độ, một cái tới 45 độ, đã gây cho một vài chiếc quân xa và dân xa khi đổ dốc mất thăng bằng lâm nạn, do đó cảnh kẹt xe thêm trầm trọng. Nhưng rồi những chiếc xe lâm nạm đã tự gây thêm chết chóc đó cũng được kéo qua bên để các đoàn xe sau từ từ đổ hai dốc.
 
Hiện Công Binh của ta đang trải những vỉ sắt trên khúc Sông Ba nơi nước tương đối cạn. May là mùa khô nước cạn, nếu gặp mùa mưa thì đoàn xe khó có lối thoát. Một số gia đình binh sĩ và các thương binh khoảng 500 người đã được trực thăng cấp cứu di tản về Tuy Hoà.
 
Cả trăm ngàn người, hàng ngàn quân xa và dân xa vẫn còn bị kẹt bên bờ Sông Ba, trong khi quân tỉnh đội Cộng Sản tại Phú Yên phục kích một quãng đường dài 10cs cách Tây Tuy Hoà khoảng 15 cs. Thành phần Cộng Sản phục kích tại đoạn đường này gồm hai tiểu đoàn địa phương K13 và 96 thuộc lực lượng tỉnh đội Cộng Sản. Địa Phương Quân của ta tại Phú Yên được phi pháo yểm trợ đang gắng sức đánh bật các chốt phục kích này để mở đường cho đoàn quân và dân xa chạy được về Tuy Hoà. Cho tới hôm nay, các chốt của địch quân vẫn chưa thanh toán được hết. Trong khi đó, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất đã tổ chức phòng tuyến ở đoạn hậu gồm có các chiến sĩ BĐQ và Thiết Kỵ để bảo vệ cho đoàn xe an toàn trong lúc chờ khúc dưới được giải toả chốt của Cộng quân.
 
Trục giao thông từ Cung Sơn tới bờ Sông Ba sang Quận Hiếu Xương đã được các chiến sĩ BĐQ và Thiết Kỵ giữ an ninh cho các đoàn xe và đồng bào vượt lên trước. Đoạn hậu của lực lượng BĐQ thuộc Liên Đoàn 22 đi bộ từ Kontum qua Pleiku, Phú Bổn, sau bảy ngày đi bộ băng rừng, thành phần tiền phong đã bắt tay được với một đơn vị BĐQ tại Sơn Hoà. Sư Đoàn 22 BĐQ đã băng rừng hơn 300cs dẫn dắt một số đồng bào đông đảo chưa thể ước lượng được là bao nhiêu. Trong khi đó, nhiều thành phần của SĐ 320 chính quy BV đang cố gắng từ Ban Mê Thuột thốc lên bôn tập đoạn hậu, quân của Tướng Tất có nhiệm vụ trì hoãn chiến với địch khi chúng xuất hiện. Đó là Liên Đoàn 22 BĐQ của ta như đã nói trên. Tính tới hôm nay, vào khoảng 50 chiến sĩ của LĐ này đã hy sinh khi chạm súng với địch quân trong cuộc băng rừng dài hơn 300cs và thi hài họ đã được chôn cất trong rừng. Khoảng 50 chiến sĩ khác bị thương. Liên lạc vô tuyến cho biết, tất cả 50 chiến sĩ bị thương này được các chiến hữu dìu, cõng, cáng, không bỏ lại một ai. Do đó cuộc Đông tiến của LĐ 22 BĐQ đi hậu tập để trì hoãn chiến với địch quân đang gặp khó khăn. Cuộc giải toả 10cs chót của Cộng quân gần thị xã Tuy Hoà phải gấp rút thanh toán trong một hai ngày, nếu không, ta e ngại có thể bị Cộng quân pháo kích vào các đoàn xe. Dù chỉ với cối nhẹ 60 hay 82 ly, cuộc pháo kích này, tới nay chưa xẩy ra, có thể gây hỗn loạn và chết thảm của đám đồng bào đã cố lết về được ranh giới miền “Tự do Dân chủ” là thị xã Tuy Hoà. Những người không có xe, đi bộ bằng phương tiện thiên nhiên là đôi chân của họ, vợ chồng bồng bế dắt diu con thơ cùng các ông già bô lão đã lội qua những chỗ khúc sông cạn nước tiếp tục thất thểu, ngác ngơ hy vọng lết được đến Tuy Hoà.
 
23-3-75: Chặn Cộng quân bằng bom CBU

10 giờ 30: Tướng Phú bay đến Phú Yên. “Đại Tá Tỉnh Trưởng vẫn quần áo đẹp, giầy ‘láng cóong’ tường trình các ‘chốt’ gần Tuy Hoà…cực kỳ nan giải . Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Phú Yên bị thiệt hại khá nặng. Tinh thần xuống dốc. Bi thảm!”
 
12 giờ 15, Tướng Phú bay trên vùng Cung Sơn quan sát đoàn xe di tản. Trở ngại quan trọng cho cuộc rút quân, cây cầu dài 300 thước trên Sông Ba, hy vọng xong đêm nay.
 
14 giờ 00, xe kéo pháo và chiến xa địch kéo về Tây Bắc Khánh Dương.
 
14 giờ 30, Sư Đoàn 23 và Bộ Chỉ Huy các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân rút khỏi mặt trận Khánh Dương, làm Tướng Phú nổi giận.
 
16 giờ 05: 8 quả bom CBU (Cluster Bomb Unit – Đơn vị Bom Chùm) vừa được thả xuống các “chốt” quan trọng của Cộng quân, cách 5 phút một quả. Đây là loại bom mới, cực mạnh, đắt tiền, và “vô cùng … hữu hiệu”, giúp các lực lượng đánh chốt lên tinh thần.
 
24-3-75: Qua cầu và phá Chốt 42
 
9 giờ 30: Cây cầu dài nhất trên Liên Tỉnh Lộ 7 đã làm xong. Hy vọng đoàn xe về tới Phú Yên hôm nay.
 
9 giờ 45: Thời tiết xấu. Phi tuần đánh bom CBU trước 10 giờ không thực hiện được. Chốt gai góc nhất còn lại, là “chốt 42”, Đồn Đại Hàn cũ, có giao thông hào và kiên cố.
 
“Đặc công Việt Cộng tới sát đoàn xe, ném lựu đạn và bắn súng nhỏ vào đồng bào. Thương vong gần 100 người”.
 
13 giờ 30: Đích thân Tướng Phú gọi cho Đại Tá Thảo, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Không Quân Phan Rang, khẩn thiết yêu cầu cho 10 phi tuần A.37 đánh Chốt 42, để đoàn xe có thể đi qua, trước khi Cộng quân kéo tới đánh phá.
 
15 giờ 45: Tin vui, phi tuần CBU 55 chuẩn bị cất cánh tại Phan Rang. Sau đó là những phi tuần bom lửa (Napalm), dẹp chốt 42 để đoàn xe qua.
 
16 giờ 03: Tin sét đánh! Đang đợi A-37, Tướng Cầm, Phụ Tá Tướng Phú thất thanh báo cáo: “Chiến xa Cộng Sản BV… bôn tập phía sau đoàn xe”!
 
Điều lo sợ mà Nguyễn Tú viết ngày 22-3 là nó chưa xẩy ra, bây giờ, nó bắt đầu xẩy ra vào chiều 24-3.
 
Lời Phạm Huấn: “Bắc quân từ khắp ngả kéo tới, sau những trận pháo như mưa vào đoàn người, đoàn xe. Lực lượng địch hôm nay thật hùng hậu. Có ít nhất là hai Trung Đoàn của SĐ 320 Cộng Sản BV, và những đơn vị pháo, đã bám sát đoàn xe, từ ngày thứ ba của cuộc rút quân. Sự hiện diện của SĐ 320 tại Khánh Dương, chỉ là một phần của SĐ này; cùng với các SĐ F10 và 316 Cộng Sản BV.
 
“15 phút đầu của trận tấn công ban ngày này, Bắc quân cắt đoàn xe thành ba khúc. Bốn chiến xa M-41 còn lại bị bắn cháy, làm tắc nghẽn đường rút quân. Phía sau, và Bộ Chỉ Huy Hành Quân BĐQ bị đánh nặng nhất. Chỉ huy cuộc rút quân, Tướng Phạm Duy Tất, bây giờ là …Tiểu Đoàn Trưởng. Ông và Đại Tá Cao Văn Uỷ (Phụ Tá Tướng Tất), cùng chỉ huy một Tiểu Đoàn BĐQ và Bộ Tham Mưu vừa đánh, vừa chạy. Kinh hoàng và hỗn loạn. Tiếng kêu khóc, rên xiết, thảm thương…vang động một góc trời, tạo thành một thứ âm thanh ai oán, chết chóc.
 
17 giờ 01: Tiếng phản lực cơ gầm thét. Hai cánh đại bàng xuất hiện. Cứu tinh tới! “Những người dân khốn khổ, những quân nhân tài xế quân xa, và những người lính đi với gia đình, quên cả nguy hiểm, ngẩng đầu lên nhìn đoàn chim cánh thép. Lẫn trong tiếng than khóc kinh hoàng, còn có cả những tiếng hò hét, hô hoán, vang lừng…”
 
Mục tiêu chính là chốt 42, và phi tuần đầu là đánh CBU, nhưng qua máy truyền tin, hai phi công biết quân dân bạn đang gặp nạn phía dưới, đã áp dụng kỹ thuật “dương Đông kích Tây”, nhào lên lộn xuống nhiều lần, làm Bắc quân hoang mang. Lợi dụng tình thế, BĐQ chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trước khi 8 trái CBU đánh thẳng vào mục tiêu chốt 42. Tiếp theo là những phi tuần bom thường và bom lửa, giúp các chiến sĩ BĐQ chặn được cuộc tàn sát tập hậu của Cộng quân. Nhưng một trái bom đã rơi trúng vị trí một Đại Đội quân bạn. Thương vong, đau đớn!
 
Khi đoàn chim sắt đã bay đi, anh em BĐQ vẫn giao chiến với Bắc quân ở một làng phía Nam Cung Sơn.
 
19 giờ 00: Đoàn xe mới sang sông khoảng 1.000 cái. Chưa biết rõ kết quả đánh chốt 42. Trời tối. Chuẩn bị chiến đấu tại chỗ.
 
20 giờ 00: Tướng Phú than “Đau đớn, thất bại”. Đồng bào tràn đi …vô tổ chức, không giữ được trật tự, kỷ luật.
 
24 giờ 00: Tướng Tất cho biết, hy vọng cả đêm sẽ sang sông được 2.000 xe.
 
25-3-75: Tả tơi tới đích Tuy Hoà! Sáng 25-3, ngày thứ chín của cuộc di tản, vẫn chưa biết rõ kết quả vụ đánh bom chốt 42 hôm trước.
 
10 giờ 00: Đại Tá Cao Văn Uỷ, Phụ Tá Tướng Tất tường trình: Hầu hết xe quân đội đã sang sông, khoảng 2.000 cái. Tướng Tất ra lệnh: “Mở đường máu” để tiến vào Phú Yên.
 
11 giờ 00: Tất cả xe quân đội đã qua sông, chỉ còn xe dân sự.
 
13 giờ 00: Lực lượng chiến xa dẫn đầu đoàn xe, đoàn quân về tới Tuy Hoà! Hò hét, reo mừng. Hân hoan lộ trên nét mặt mọi người. Tuy nhiên, đây mới chỉ là lực lượng chiến xa dẫn đầu đoàn xe về tới Tuy Hoà. Đoàn xe vẫn còn kẹt chốt ở Phú Thứ. Những chiếc đầu tiên chỉ về tới Tuy Hoà vào lúc 17:30. Rồi xe, quân và dân, tiếp tục tiến về suốt đêm, cho đến sáng hôm sau.
 
- “Đại Lộ Kinh Hoàng” ngoài Huế: 2 ngày, 15 cây số.
- “Liên Tỉnh Lộ Máu 7” Pleiku-Phú Yên: 9 ngày, 9 đêm, 300 cây số!
 
Kiểm điểm thiệt hại về chiến xa, theo Phạm Huấn: Khi rút khỏi Pleiku sáng 17-3-75, Lữ Đoàn II Thiết Kỵ QĐ II có hơn 100 chiến xa đủ loại, với những chiến xa nặng tối tân, như M-48 và M-41. Trưa 25-3, về tới Phú Yên, chỉ còn 13 Thiết Vận Xa M-113. Về người, hàng trăm ngàn dân, tuy đã bị Chính Quyền Trung Ương định “cho ‘thằng’ Cộng Sản”, không biết chắc có bao nhiêu ngàn đã tự ý ra đi với đoàn quân, và bao nhiêu người đã thiệt mạng trong chín ngày đêm trên Tỉnh Lộ Máu và núi rừng lân cận.
 
1-4-75: Quân Đoàn II… không còn nữa! Tuy đoàn di tản, sau bao cực khổ và chết chóc, cuối cùng đã về tới đích Tuy Hoà. Nhưng nơi đây không còn là đích an toàn như dự kiến. Khắp nơi, từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, đến Đà Lạt, Nha Trang, nơi nào cũng đã, hoặc đang bỏ chạy. Thành ra, di tản cũng như không!
 
Suốt một tuần sau khi đoàn di tản về tới Tuy Hoà, theo Phạm Huấn, “Tướng Phú như một người bị… rối loạn!!!” Ông không biết làm gì, cư xử ra sao, cho đến chiều ngày 1 tháng 4, 1975.
 
17giờ 50: Tướng Phú tới Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Không Quân, gần Phi Trường Nha Trang. Tuy có báo trước, nhưng không thấy ai chờ đợi hay đón tiếp như thường lệ. Vào văn phòng, Tướng Phú hất hàm hỏi:
 
- Có chuyện gì xẩy ra?
 
Tướng Nguyễn Văn Oánh, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, đáp:
 
- Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng, tôi được chỉ định làm Tư Lệnh Mặt Trận Nha Trang, vì Quân Đoàn II… không còn nữa!
 
Vẫn theo Phạm Huấn: Phần còn lại của Quân Đoàn II được sát nhập vào Quân Đoàn III trong một lễ bàn giao tại Phan Thiết, giữa Tướng Phú và Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, vào sau 2 giờ chiều, ngày 2-4-75, kết thúc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
 
Tướng Phú đã tự tử chết tại Sài Gòn, trưa 30-4-1975, sau khi nghe Trung Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản.
 
Trong bài gửi đi từ Quận Hiếu Xương ngày 25-3, đăng trên Chính Luận, số báo đề ngày 27-3-75, với tựa lớn ba cột trang nhất, 100 NGÀN NGƯỜI ĐÃ VỀ TUY HOÀ, và đoạn cuối bài, với tựa nhỏ “Địch ‘thắng’ lớn”, Nguyễn Tú viết: “Trong khi chốt cuối cùng của địch bị tiêu diệt vào ngày 25 tháng 3, dù đã được khuyên “không nên mạo hiểm, phải chờ giải toả”, một số đồng bào khoảng 100 người, gồm già trẻ lớn bé, đi bộ hoặc đi xe 2 bánh, sau khi qua được cầu nổi để tới hữu ngạn Sông Ba, đã theo lộ 436 đi luôn. Tới núi Hương, tức cách ngã ba Quốc Lộ 1 và lộ 436 vài cây số, đoàn người đã bị đại liên địch của chốt chót này quạt liên hồi. Dường như tất cả đã bị tàn sát. Có lẽ không ai chạy thoát”.
 
Vào lúc 20 giờ ngày 21 tháng 3, 1975, là ngày thứ năm của cuộc di tản, Phạm Huấn viết về Nguyễn Tú:
 
“Những bài báo ký giả Nguyễn Tú viết về Đoàn Quân triệt thoái đăng trên báo Chính Luận, được Đài Phát Thanh Hà Nội và Đài Phát Thanh Giải Phóng đọc nguyên văn. Tướng Phú gọi tôi khiển trách: “Tôi bị phiền nhiều quá vì báo chí… các Anh!”
 
“Tôi yên lặng chịu trận, Ký giả lão thành Nguyễn Tú là người tôi rất kính trọng – Mùa Xuân vừa rồi, ông đã ăn Tết với anh em Biệt Động Quân cả … tuần lễ tại Mặt Trận Bắc Kontum –Khi đoàn quân tăng viện xuống Phứơc An, Ông yêu cầu được nhảy theo đơn vị đầu tiên.
 
“Hôm rời Pleiku, tôi “gởi” Ông… bay theo Tướng Tất. Nhưng sau đó, ông đã xin đi theo đường bộ với Đoàn Xe, và những đơn vị Biệt Động Quân.
 
“Những bài báo ông viết rất có giá trị. Đó cũng chỉ là một phần của đau thương, kinh hoàng… đã xẩy ra trong cuộc rút quân, trên con đường của Tử Thần: Liên Tỉnh Lộ 7 !!!
 
Tại sao Đài Hà Nội và Đài Giải Phóng cho đọc nguyên văn những bài của Nguyễn Tú?
- Vì họ nghĩ rằng nội dung những bài đó có lợi cho họ. Lợi ở chỗ nào? - Nêu cao được chiến công của họ trong sứ mạng giải phóng Miền Nam. Chiến công gì?- Giết được nhiều quân dân địch. Đúng với chủ trương đường lối của Đảng:
 
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”
Tố Hữu
 
Không phải Quân Nguyên, Quân Thanh đánh Quân Nam. Sau Hiệp Định Genève 1954, không còn Quân Pháp đánh Việt Minh. Sau Hiệp Định Paris 1973, không còn Quân Mỹ đánh Việt Cộng. Năm 1975, chỉ có người Việt giết người Việt. Chính xác hơn: Cộng Sản Việt giết dân Việt, từ cả hai phía, Bắc và Nam. Dân Bắc bị đẩy ra trận, giết dân Nam. Đảng là “Bên Thắng Cuộc”. Dân là bên thua cuộc, là “thế lực thù địch”. “Công An Nhân Dân chỉ biết còn Đảng còn mình”.

1975: Bên thua cuộc, ai chưa chết, đi tù. 2025: Tác gỉa “Bên Thắng Cuộc”, cũng ở tù!

Hầu hết Tướng Bắc, Tướng Nam không còn nữa. Chỉ còn Đảng!
 
50 năm, mỗi 30 tháng Tư, Kỷ niệm tưng bừng! “Không thấy phố, thấy nhà, Chỉ thấy mầu Cờ Đỏ!” Mầu máu!
 
(Còn tiếp)
 
Đinh Từ Thức
 https://vietbao.com/a321982/50-nam-sau-so-tay-viet-lai-nguoi-viet-tan-sat-nguoi-viet-bai-3-

 

Chủ đề 50 năm:“Sổ tay” viết lại – Người Việt tàn sát Người Việt ((Bài 2)

50 Năm Sau Sổ Tay Viết Lại (Bài 2)
 Con Đường Tử Thần

Các quốc lộ chính tại Vùng II chiến thuật: 1, 14, 19, 21,

Và Liên Tỉnh Lộ 7Đường Tử Thần nối Pleiku với Tuy Hoà.

(Bản đồ từ Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Phạm Huấn)

Theo ghi nhận của Phạm Huấn, tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, hồi 13 giờ 03 phút, lệnh triệt thoái Cao Nguyên được coi như chính thức ban hành. Sau đó, Tướng Thiệu hỏi Tướng Viên liệu có thể dùng Quốc Lộ 19, hay 21 để rút quân?

Tướng Viên trả lời không thể dùng đường 21 nối Ban Mê Thuột với Nha Trang vì đường 14 từ Kontum-Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, và có ba bốn Sư Đoàn  Cộng Sản Bắc Việt tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể đi thoát qua ngả đó. Cũng khó thành công nếu dùng Quốc Lộ 19; nối Pleiku với Quy Nhơn; vì địch quân đóng chốt nhiều nơi.

Tướng Thiệu hỏi ý kiến Tướng Phú, ông này đề nghị đường số 7, nối liền Pleiku-Phú Bổn-Phú Yên (qua các tỉnh lỵ Hậu Bổn/Phú Bổn, và Tuy Hoà/Phú Yên). Tướng Thiệu tỏ ý lo ngại vì đường số 7 đã bỏ hoang từ lâu, có nhiều mìn chưa nổ đặt từ hồi quân Đại Hàn, có nhiều cầu hư hỏng không lưu thông được, như cây cầu dài trên Sông Ba, cách Phú Yên khoảng 20cs. Tướng Phú thuyết phục Tướng Thiệu là Công Binh có thể sửa những cây cầu hư hỏng, và Tướng Viên thêm vào, sử dụng đường số 7 có ưu điểm là yếu tố bất ngờ.

Tướng Thiệu hài lòng, ra lệnh:

– Thiếu Tướng Phú, tôi cho anh toàn quyền tổ chức và quyết định về “cuộc hành quân” để mang tất cả chủ lực quân, chiến xa, Pháo Binh, máy bay của Quân Đoàn II về phòng thủ Duyên Hải, và tái chiếm Ban Mê Thuột. Vì tính cách vô cùng quan trọng của “cuộc hành quân” này, và để giữ được yếu tố bất ngờ với địch: Anh chỉ cho các Tướng Lãnh, cấp chỉ huy dưới quyền biết… từng phần của lệnh này, và ra lệnh tuyệt đối giữ bí mật với dân chúng!!!

Tuy lệnh ban ra là “tuyệt đối giữ bí mật với dân chúng”, nhưng theo Nguyễn Tú, dân chúng nghe tin đồn, đã tự động chuẩn bị từ ngày 15-3, và bắt đầu lên đường từ tối 16-3, trước cả chủ lực quân, tuy chưa biết rõ điểm tới cuối cùng là ở đâu. “Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn, sau đó sẽ tính”.

17-3-75: Chính thức khởi hành

Ngày ra đi của đại quân là 17-3, Phạm Huấn viết:

Tin Quân Đoàn “di tản” đã không còn là một tin “tối mật” như các giới chức Quân Sự mong muốn. Từ hai ngày nay, mọi người dân Pleiku, mọi gia đình Quân Nhân, và chắc chắn cả địch nữa đều biết.

Hỗn loạn, cướp bóc, bắn phá xẩy ra nhiều nơi, trong và ngoài thị xã.

8 giờ 40. Đoàn xe di chuyển. Khoảng 4.000 quân xa đủ loại, và các xe dân sự.

Vẫn theo Phạm Huấn, chặng đầu của cuộc rút quân Pleiku-Phú Bổn sáng ngày 17-3-1975, diễn ra tốt đẹp. 13 giờ 40, từ Sài Gòn gọi ra, Tổng Thống, Nội Các, và các Tướng Lãnh khen ngợi về cuộc rút quân.

“Nhưng, đấy chỉ là chặng đầu tiên trên Liên Tỉnh Lộ 7. Con đường chôn vùi hàng nhiều ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội. Chôn vùi tên tuổi tất cả các Tướng lãnh đạo Đất Nước trong những năm sau cùng. Và cũng chính là con đường đưa đến sự sụp đổ mau chóng của Quân Lực VNCH, để rồi, mất nước sau đó!”

Buổi tối cùng ngày, có tin một nhóm lính Thượng đã nổi loạn, đốt nhà, ăn cướp…. Ngoài ra, vảo hồi 17g30, du kích Cộng sản bắn súng cối, làm cháy một quân xa, và một xe dân sự.

18-3-75: Hết bất ngờ, địch khởi sự tấn công

9 giờ, tin tình báo từ Sải Gòn cho biết: Các đơn vị du kích Cộng quân đã tập trung một số súng cối ở phía Nam Hậu Bổn (tỉnh lỵ Phú Bổn), để pháo, cắt đứt đoàn xe thành nhiều đoạn, làm trì trệ cuộc rút lui, đợi chủ lực quân Bắc Việt tới tấn công. Đêm qua, Sư Đoàn 320 của Bắc Việt đã bỏ mặt trận Bắc Ban Mê Thuột, kéo theo đại bác 122 ly, do Sư Đoàn 23 Bộ Binh của VNCH bỏ lại, tiến về Phú Bổn. Tướng Phú vô cùng hốt hoảng khi biết tin này.

Đang trong nỗ lực đối phó với địch, lại có rủi ro từ phía mình: Bom của Không Quân ta, đã đánh trúng, làm bốc cháy hai chiến xa M-41 của quân mình. Cùng lúc đó, một số lính Thượng bỏ chạy, nổi lửa đốt doanh trại. Tỉnh Trưởng bất lực, các cấp chỉ huy bó tay. “Khắp các ngả đường bên ngoài, và mọi nơi trong thị xã Phú Bổn, xe cộ và người… chật cứng”.

15 giờ 05, Thủ Tướng Khiêm và phái đoàn Chính Phủ tới thăm Bộ Tư Lệnh QĐ II (mới chuyển từ Pleiku về Nha Trang). Tướng Khiêm khen ngợi và nhận định: – Đây là cuộc rút quân vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Đúng như tin tình báo buổi sáng cho biết, trong khi Tướng Phú đón tiếp phái đoàn Thủ Tướng thì trung đoàn tiền phong của Sư Đoàn 968 Cộng Sản BV đã từ Ban Mê Thuột tới Phú Bổn, Phú Yên, phối hợp với các tiểu đoàn Việt Cộng, và đặc công Thượng tại địa phương, tăng cường lực lượng đánh phá đoàn xe di tản. Võ khí hạng nặng của ta như Đại Bác 122 ly do SĐ 23 bỏ lại, đã được Cộng quân sử dụng bắn vào quân dân ta. Theo Phạm Huấn:

“Từ 13 giờ trưa hôm qua, 17-3-1975, khi những chiếc xe Thiết Giáp đầu tiên vào Phú Bổn, ‘phố Quận’ này đã nhộn nhịp hẳn lên. Sau đó, đợt này qua đợt khác, xe và người chen chúc dồn vào như … nêm cối. Cả trăm ngàn người co rút trong cái thị xã nhỏ bé này. Vì bị làn sóng … người Kinh xâm nhập chớp nhoáng, quyền lợi bị đụng chạm. Một số lớn lính Thượng, dù không phải là Thượng Cộng, cũng đã nổi lửa đốt nhà, đốt doanh trại bỏ đi.

Pháo của Bắc quân nã vào. Những đơn vị chiến xa, Pháo binh nặng… tập trung trong thị xã bây giờ kẹt cứng. Không nhúc nhích, không xử dụng được. Các trưởng xa, tài xế, pháo thủ cũng chịu chung số phận như những người khác. Tất cả trở thành mục tiêu cố định của những trận mưa pháo.

Thật kinh hoàng, khủng khiếp. Biển người và biển máu. Đó cũng là giờ phút khởi đầu của đoàn quân, đoàn xe, đoàn người đi trên khúc quanh Tử Thần, của Tỉnh Lộ Máu số 7”.

19-3-75: Mang M.48 về bằng mọi giá

01 giờ 15, Quận Phú Túc trên Tỉnh Lộ 7, sau Hậu Bổn, bị pháo rất nặng, rồi bị Cộng quân tràn ngập lúc 2 giờ sáng, cố chặn đầu đoàn xe. Biệt Động Quân tái chiếm sau một trận đánh đẫm máu, tuy địch vẫn cố bám sát quanh Phú Túc.

8 giờ 45: Tổng Thống Thiệu gọi, ra lệnh, bằng mọi giá, phải mang chiến xa M.48, và đại pháo 175 ly về phòng thủ mặt trận Duyên Hải, và Sài Gòn. Trong khi đó, Việt Cộng vẫn đóng chốt dầy đặc tại quãng đường hơn chục cây số trước khi tới Phú Yên. Và cũng chẳng ai biết rõ còn bao nhiêu chiến xa và đại pháo có thể xử dụng được.

11 giờ 30, theo tường trình của Tướng Tất, chỉ huy tổng quát cuộc lui quân: Việc sửa cây cầu lớn gần Phú Túc vẫn chưa xong. Đường còn quá xa. Lúng túng, khó khăn, vì phải giữ chiến xa do lệnh thượng cấp. Lo sợ Sư Đoàn 320 BV đuổi theo tấn công xả láng. Tinh thần lính và vợ con đi theo bị sa sút nặng nề.

12 giờ 25: Từ Sài Gòn gọi ra, lệnh của Tổng Thống Thiệu: Xử dụng Pháo Binh, Không Quân tối đa, “san bằng” Phú Túc để Đoàn quân di chuyển. Cầu gặp khó khăn, dùng vỉ sắt PSP của sân bay Cung Sơn thẩy xuống làm đường cho chiến xa đi. Tướng Phú ra lệnh bắn vào nhóm Thượng nổi loạn để đoàn xe tiến về Sơn Hoà.

15 giờ: Đoàn xe chính còn lại, trên khoảng Phú Túc – Cung Sơn, ước lượng 3.000 xe. Lính Thượng vẫn nổi loạn giữa Hậu Bổn-Phú Túc. Đốt những xe kẹt lại phía sau.

Tổng cộng chiến xa bị thiệt hại trong hai ngày 18 và 19 tháng 3 là 30 chiến xa. Theo Phạm Huấn, đó là theo báo cáo, sự thật nhiều hơn nữa!

17 giờ 50: Ghi nhận Phú Bổn mất. Một số lớn chiến xa M48 và M41 bị kẹt lại Phú Bổn.

Tổng số chiến xa đi được, vừa qua sông Phú Túc: 6 M48, 16 M41, 13 Thiết Vận xa M113.

18 giờ: Tướng Chức, Chỉ Huy Trưởng Công Binh cho biết, Đoàn Xe Quân Đội qua sông Phú Túc khoảng 1.500 cái.

Trong khi ấy, Không Quân được lệnh đánh bom các cơ sở Quân Sự quan trọng bị bỏ lại ở Pleiku, như kho đạn đại bác mới 14.000 tấn, kho xăng…

20-3-75: Chiến Xa, Đại Bác và Những Xác Người

8 giờ 05: Tướng Tất tường trình tình hình chung của Đoàn quân. Những đơn vị BĐQ vừa di chuyển, vừa tác chiến, để bảo vệ phía sau Đoàn xe. Những đơn vị này, vừa chịu những trận mưa pháo của địch, vừa chiến đấu với Bắc quân trong 3 ngày liền. Thiệt hại trung bình… một phần ba quân số. Trong phần kiểm điểm tình hình, trước khi đi tiếp, Phạm Huấn ghi nhận:

“Thành phố đất đỏ nhỏ bé miền núi Phú Bổn, sau những trận mưa pháo của Bắc quân, buổi trưa và đêm 18.3.1975, đã biến thành ‘một chợ trời… xác chết’. Khắp nơi nơi, chỗ nào cũng có xác người chồng lên nhau. Đau đớn nhất là những chiến hữu của họ trong cái chết oan khiên, tức tưởi. Những pháo thủ súng lớn nằm dài sõng sượt dưới chân Đại Bác, gối đầu lên nhau. Hai nòng súng cao ngất — loại Đại Bác 175 ly lớn nhất của QLVNCH – cũng … chụm đầu lại (?) Những trưởng xa, tài xế các loại xe M48, M41 ‘ngồi yên, bất động’ trong pháo tháp, trên đầu xe, với hình hài không còn nguyên vẹn. Một góc sân Trường Tiểu học, họ đếm được 4 xe M41 đậu dồn lại. Khu đất trống trước Toà Hành Chánh, 8 chiếc M48, M41 san sát bên nhau như để… triển lãm.

“Vây bọc chung quanh những khẩu Đại Bác 175 ly, những chiến xa, là những ‘hàng rào’ xác nguời, xe cháy, xe hư kéo dài ra tới ngoài thị xã…

“70% lực lượng chiến xa và Pháo Binh nặng của Quân Đoàn II được bố trí, dồn đống trong Phú Bổn. Một ‘phố quận’ mà mỗi chiều chưa tới một cây số!

Advertisement

“Tổng số chiến xa nặng và Đại Bác 175 ly ‘bỏ lại’ Phú Bổn:

–       40 chiến xa M41 và M48.

–       8 khẩu đại bác 175 ly.

11 giờ 20: Các đơn vị Công Binh Liên Đoàn 6 vẫn dồn mọi nỗ lực ủi đường, sửa cầu, làm cầu trên Liên Tỉnh Lộ 7 để đoàn xe qua. Cứ một cây cầu vừa sắp sửa làm xong, dân chúng đã ồ ạt tràn tới. Hỗn loạn, vô trật tự, không có cách nào giải quyết được.

11 giờ 30: Cùng với tình hình nóng bỏng của Tỉnh Lộ 7, tin từ nơi khác đổ về: Chiến xa và Bắc quân tràn ngập Quảng Trị đêm 19-3, và Huế bỏ ngỏ. Hai tỉnh Lâm Đồng, Quảng Đức bị đánh nặng. Tin Đà Lạt di tản. Dân chúng hoang mang, lo sợ, chạy đổ về Cam Ranh.

***

Dưới đây là bài của Nguyễn Tú, ghi nhận từ phía dân sự về cuộc di tản, cùng ngày 20-3-75, đăng trên Chính Luận số báo đề ngày 22-3-75, trang 1:

Từ Kontum-Pleiku và Phú Bổn kéo xuống

ĐOÀN DI TẢN ĐÃ VÔ GẦN PHÚ YÊN

Nhưng chưa qua được vùng giao tranh

Nguyễn Tú

SƠN HOÀ, 20-3.—Đoàn di tản Kontum-Pleiku-Phú Bổn đã về được tới địa phận của tỉnh Phú Yên. Nhưng tất cả xe cộ binh sĩ và dân chúng còn kẹt lại quận lỵ Sơn Hà? Chỉ mới có một nhóm khoảng 200 người được trực thăng đưa thẳng về Tuy Hoà.

Tin của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, điện về toà soạn đêm Thứ Năm (20-3) cho hay các chi tiết sau đây:

“Trận mở đường máu để thoát khỏi cuộc tấn công bất ngờ của Cộng quân và người Thượng phản loạn đã kéo dài từ chiều 18 qua sáng 19-3. Phần lớn đoạn đầu đã vượt qua lưới lửa, tiến về Đông. Phần còn lại ở phía sau phải băng rừng để vượt đi. Bản báo ĐPV Nguyễn Tú cùng chạy với đoạn hậu này. Và đây là thêm chi tiết về trận chiến ở Phú Bổn:

“Hoả lực của Địa Phương Quân Thượng phản loạn, gồm từ các loại súng của ta cho tới B41, AK47 của “địch”, bắn xối xả vào đoàn xe. Đạn đại pháo Cộng quân từ bốn phía cũng xối xả dội xuống. Nhiều chiếc xe trúng đạn bốc lửa biến thành những giàn hoả nổ tung. Tất cả những người ngồi nêm chặt trên xe không xuống được, gồm cả binh sĩ lẫn dân sự, già trẻ lớn bé nam nữ cũng văng lên 4 phương 8 hướng với các mảnh vụn của xe.

Đông đảo đồng bào không có xe để đi, ngồi dọc hai bên lộ hoặc mới nhảy từ xe xuống, bị những tràng liên thanh địch quạt ngang, gục ngã từng loạt. Máu đã xối xả tuôn chảy trên mặt lộ như những giòng suối nhỏ. Tiếng rít của đại bác, tiếng nổ của đạn nhỏ, tiếng la hét của những người chưa chết, tiếng khóc của trẻ con, tạo thành một âm thanh… địa ngục. Cuộc chống trả của Biệt Động Quân kéo dài từ chiều 18 đến sáng 19, đoạn chót đoàn di tản mới thoát được vô rừng.

Bạn Nguyễn Tú kể tiếp:

“Chạy miết một hồi, nhóm người chót còn lại khoảng 200 người leo được tới đỉnh đồi Chu dal. Khoảng cách từ thị xã Hậu Bổn tới đèo Chu dal chỉ lối 10cs nhưng phải băng qua toàn rừng rậm, suối sâu. Lối 11 giờ trong ngày, nhóm người sống sót bắt liên lạc vô tuyến được với trực thăng thám sát. Khoảng 3 giờ, một đoàn trực thăng phái tới cứu cấp.

Nhưng đỉnh đồi cheo leo và hẹp, việc cứu cấp rất khó, số người ở dưới lại đông. Cuối cùng chỉ có một số được bốc đi vì trời cũng đã tối. Công cuộc cấp cứu lại được tiếp tục vào sáng hôm sau. Hiện số 200 đồng bào và binh sĩ ở Chu dal đã được đưa thẳng về Tuy Hoà”.

Ngoài tin của Nguyễn Tú điện về. tin từ Tuy Hoà cho biết tất cả đoàn di tản Kontum Pleiku Phú Bổn đã vào được địa phận an toàn của Phú Yên. Tuy nhiên, tất cả xe cộ phải ngưng lại dọc sông Ba, vì liên tỉnh lộ số 7 vốn đã không được sử dụng từ nhiều năm nay vì lý do an ninh. Tin này cũng cho biết: Đoàn xe và người đen như kiến hiện bu quanh quận lỵ Sơn Hải chưa thể biết chắc bao giờ mới về được Tuy Hoà, vì đoạn đường chót 40 cây số đang là vùng giao tranh ác liệt giữa BĐQ, Bộ binh và quân chính quy Bắc Việt. Theo nguồn tin chính thức cho biết số dân Kontun, Pleiku di tản sẽ được tạm trú tại Nha Trang.

***

Cùng trong số báo với bài của Nguyễn Tú trên đây, Chính Luận đăng nguyên văn lời hiệu triệu của Tổng Thống Thiệu cùng đồng bào, với tựa đề 2 cột trang 1: TỔNG THỐNG THIỆU LÊN TIẾNG “Chỉ bỏ Kontum Pleiku đồng bào cứ bình tĩnh”. Trong đó, có nói về Cao Nguyên, như sau:

“Riêng về Cao Nguyên, nơi mà chúng ta phải chiến đấu trong thế 1 chống lại 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà buộc phải tái phối trí để bảo toàn lực lượng và tạo điều kiện chiến đấu tự vệ hữu hiệu hơn trong giai đoạn này. Vì vậy Quân Lực ta đã không cố thủ hai thị xã Kontum và Pleiku.

“Tại các mặt trận khác, từ Trị Thiên qua vùng Duyên Hải QK2, đến QK3 và QK4, chúng ta nhất quyết bảo vệ lãnh thổ đến cùng.

“Những tin đồn bỏ Thừa Thiên, hay Đà Lạt, hoặc một vài nơi khác chỉ là những tin đồn nhằm tạo hoang mang trong quần chúng và hoàn toàn vô căn cứ.

“– Cho nên, tôi kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh và vững tin với một ý chí chống Cộng dứt khoát, với tình Quân Dân đoàn kết hy sinh trong chiến đấu, với sự sát cánh hậu phương tiền tuyến, chúng ta sẽ không bao giờ để cho Cộng Sản xâm lược thôn tính miền Nam Tự Do thân yêu này.

Tổng Thống Thiệu đã nói quá đủ. Người viết xin miễn có lời bàn.

(Còn tiếp)

– Đinh Từ Thức

Chủ đề 50 năm:“Sổ tay” viết lại – Người Việt tàn sát Người Việt ((Bài 1)

 

50 năm sau ‘Sổ tay viết lại’

 THỜI GIAN HẤP HỐI của VNCH

So tay viet lai 1
 

Lời Tòa Soạn: Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
 
Trước 1975, ký giả Đinh Từ Thức với bút hiệu Sức Mấy phụ trách mục “Sổ Tay” xuất hiện hằng ngày trên nhật báo Chính Luận, Sài Gòn, một cơ quan ngôn luận được xem là uy tín và trung thực nhất của Nam Việt Nam thuở đó; những bài viết trong loạt bài này phần nhiều được viết lại dựa trên nội dung mục Số Tay, và là bản tường trình từ chiến trường của hai nhà báo quá cố Nguyễn Tú (dân sự) và Phạm Huấn (quân sự).
 
Việt Báo trân trọng giới thiệu.
 
Lời dẫn: Trước tháng Tư 1975, người viết phụ trách mục Sổ tay, xuất hiện hàng ngày trên nhật báo Chính Luận, Sài Gòn; lúc đầu ở trang 3, với bút hiệu Sức Mấy. Về sau, mục này được chuyển lên trang 1, vẫn gọi là Sổ tay, bút hiệu đổi thành Cự Môn. Sổ tay ghi lại đủ thứ chuyện lớn nhỏ xẩy ra hàng ngày, thuộc mọi lãnh vực, từ chuyện đứng đắn tới tào lao, chuyện khóc, chuyện cười, cả những chuyện cười ra nước mắt. Kèm theo các sự việc thường có lời bình của người viết.

Nửa thế kỷ đã trôi qua. Một thời gian khá dài, nhiều người trưởng thành sống vào thời đó nay đã ra đi, ai còn lại quên nhiều hơn nhớ. Trong mùa kỷ niệm một biến cố lịch sử làm thay đổi cục diện cuả cả một dân tộc, người viết muốn viết lại mấy kỳ Sổ tay từ 50 năm trước. Không phải chép lại những gì đã viết, mà ôn lại những gì đáng nhớ, đã xẩy ra từ nửa thế kỷ, vào giai đoạn cuối cùng của VNCH. Và đôi khi, cũng ghi lại cả những gì đang xẩy ra 50 năm sau ở Mỹ. Có những điều Sổ tay hồi đó không ghi, mà bây giờ nên nhớ. Có những điều diễn ra bây giờ, mà quen thuộc như chuyện năm xưa.

Xin cảm ơn rất nhiều bạn Võ Phi Hùng, cựu học sinh Petrus Ký (67-74), người đã bỏ công scan lại những tờ báo thời VNCH từ microfilm của Đại Học Cornell, đem tặng Kho Sách Xưa Quán Ven Đường của Chủ Quán Huỳnh Chiếu Đẳng. Nhờ những công lao bất vụ lợi quý hiếm này mà người viết đã có chất liệu cần thiết cho Sổ tay viết lại. Cũng đặc biệt cảm ơn hai nhân vật vô cùng quan trọng, tuy không còn nữa, nhưng công lao của họ sẽ còn lại mãi với lịch sử những ngày cuối cùng của VNCH. Đó là nhà báo dân sự Nguyễn Tú, và nhà báo quân đội Phạm Huấn.

Nguyễn Tú đã hoạt động chính trị với các lãnh tụ đảng Đại Việt trước khi làm báo. Bác sĩ Đặng Văn Sung, chủ báo Chính Luận, cũng xuất thân từ Đại Việt nên Nguyễn Tú có một vị thế đặc biệt, không giống các nhà báo thường. Nguyễn Tú muốn đi đâu thì đi, muốn viết gì thì viết, theo cái nhìn và lương tâm của mình; không theo phân công của bộ biên tập, không bắt buộc bao lâu phải viết một bài. Ông không thích ra trận với cấp chỉ huy, mà thích đi hành quân với lính và trà trộn với dân để biết rõ sự tình.

Phạm Huấn là sĩ quan cấp Tá, xuất thân từ các trường võ bị Việt và Mỹ, luôn cận kề với các tướng lãnh cao cấp, nhưng không chiến đấu bằng vũ khí, mà bằng ngòi bút. Cuối năm 1974, đang là thành phần của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên; một cơ cấu ra đời từ Hiệp Định Hoà Bình (giả) Paris 1973, ông được Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, chọn làm phụ tá báo chí. Phạm Huấn đã ghi lại được mọi quyết định quan trọng của vị Tư Lệnh Chiến Trường Vùng II, không những từng ngày, mà từng giờ, từng phút, cho đến khi ông Tướng Quân Đoàn thành tướng không quân.

Đọc Nguyễn Tú biết được niềm hy vọng, nỗi băn khoăn và sự cực khổ, tìm sống trong cõi chết  của lính, của dân. Đọc Phạm Huấn biết được ai ra lệnh, ai thi hành, và vì đâu nên nỗi. Nếu đọc một nguời, chỉ biết được nửa sự thật. Cần đọc cả hai để biết được toàn cảnh thời gian hấp hối của VNCH nửa thế kỷ trước. Sổ tay viết lại làm công việc nối kết những bài viết của Nguyễn Tú về Kontum-Pleiku bi thảm ra đi trên Chính Luận cuối tháng 3, 1975, và những gì Phạm Huấn ghi lại trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên xuất bản năm 1987, và đã tái bản nhiều lần.

***

Bắt đầu từ đâu? Đã định lấy vụ Cộng quân đánh Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3, 1975, làm mốc thời gian khởi sự những ngày cuối cùng của VNCH. Nhưng số phận của thành phố này đã không rõ ràng trong một tuần. Chính Luận, số báo đề ngày Thứ Ba, 11 tháng 3, 1975, chạy tin quan trọng nhất, 5 cột: Ban Mê Thuột bị vây – Phi trường bị chiếm. Báo chí Sài Gòn hồi đó phát hành vào buổi chiều, đề ngày hôm sau. Báo đề ngày 11, phát hành từ chiều ngày 10. Phần mở đầu bản tin cho biết như sau:

SAIGON, 10-3.- Thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Darlac đã bị Cộng Quân bao vây bốn mặt từ đêm qua. Bản báo đặc phái viên hiện có mặt tại Quân Khu II điện về cho biết tin trên và nói thêm “Ban Mê Thuột bị bao vây 4 mặt, các tiền đồn phòng thủ vòng ngoài bị địch tấn công và pháo kích ác liệt”. Bản báo phái viên cũng báo tin “đã có xe tăng địch bị phát hiện tại vòng đai thị xã”.

Đã có xe tăng địch bị phát hiện, là chi tiết quan trọng. Bản tin quân sự sáng ngày 10 tháng 3 cho biết: “Kể từ 03g00 sáng hôm nay, các lực lượng CSBV đã pháo kích 400 quả đạn đủ loại vào khu vực tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, đồng thời chúng cũng đã tấn công phi trường dành cho phi cơ L19 tại tỉnh lỵ, Chi Khu Ban  Mê Thuột ở kế cận, kho đạn tại 5cs Tây Ban Mê Thuột và ĐPQ ở gần đấy cùng phi trường Phụng Dực tại 7cs Đông tỉnh lỵ Ban Mê Thuột. Hiện khu vực phía Nam thị xã đang bị Cộng quân bao vây. Một số chiến xa của địch cũng đã được ghi nhận”.

Cùng ngày 10 tháng 3, ngoài tin xấu về Ban Mê Thuột, còn mấy tin đáng quan tâm. Một là 37 Dân Biểu Mỹ gửi thư cho Tổng Thống Ford chống quân viện bổ túc cho VNCH và Cao Miên. Hai là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lên tiếng khẩn thiết kêu gọi các nước Nga, Tầu và Mỹ chấm dứt quân viện cho các phe đối chiến tại Nam VN.

Sáng 12 tháng 3, phát ngôn viên quân sự của Chính Phủ VNCH bác bỏ nguồn tin BMT đã thất thủ. Hôm 13-3, Pháp Tấn Xã (AFP) loan tin theo lời chứng của một linh mục thoát ra từ BMT, nói rằng lực lượng tấn công là do tổ chức Fulro của người Thượng và Cộng Sản địa phương nổi dậy, không do Cộng Sản Bắc Việt chủ động. Hôm sau, 14-3, Sở Ngoại Kiều thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đã mời ký giả Paul Leandri của AFP tới hỏi về nguồn tin này, đưa đến cãi cọ giữa đôi bên, và ông Leandri đã bị bắn chết. Vụ này đã gây căng thẳng giữa Pháp và VNCH, gây ra dư luận xấu từ khắp nơi đối với Sài Gòn, giữa lúc nơi đây đang cần ủng hộ về cả vật chất lẫn tinh thần.

Phải đợi đến đêm Chủ Nhật 16 tháng 3, khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II từ Pleiku đột ngột rời về Nha Trang, dân chúng hoảng loạn liều chết tháo chạy, thực sự mở đầu giai đoạn chót của VNCH.

Cuộc họp Cam Ranh: Bỏ Pleiku-Kontum

Theo Phạm Huấn ghi nhận, do Tướng Phú cho biết, quyết định rút Pleiku-Kontum là lệnh từ Tổng Thống Thiệu tại cuộc họp tối mật ở Cam Ranh vào trưa 14 tháng 3, 1975. Cuộc họp này, phía Mỹ cũng không biết, chỉ có năm tướng Việt: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu; Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, Đại Tướng Cao Văn Viên; Phụ Tá An Ninh Quân Sự cùa tổng thống, Trung Tướng Đặng Văn Quang; và Tư Lệnh Quân Đoàn II, kiêm Tư Lệnh chiến trường Cao Nguyên, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.

Cuộc họp định mệnh bắt đầu lúc 11giờ 32, chấm dứt lúc 13 giờ 29 phút. Sau khi nghe Tướng Phú báo cáo tình hình khó khăn về mặt trận Ban Mê Thuột và Cao Nguyên nói chung, Tướng Thiệu cho biết vào lúc 12 giờ 57 phút:

- Sau Hiệp Định Paris 1973, quân viện Mỹ cho Việt Nam giảm 50%; từ 2 tỷ xuống 1 tỷ MK cho 1975. Trong khi đó, viện trợ Nga dành cho Bắc Việt tăng gấp đôi.
- Cao Nguyên Vùng II có 4 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt hiện diện. Tại Quân Khu I, có tới 6 đến 7 sư đoàn Cộng quân.
- Cam kết của Nixon sử dụng B52 nếu Cộng Sản vi phạm Hiệp Định Paris không còn giá trị.
- Nguồn tin Mỹ có ngân khoản lớn yểm trợ không quân cho chiến trường VN là sai.

Tổng Thống Thiệu quyết định: Tái phối trí các lực lượng chính quy VNCH để chống lại các lực lượng Cộng Sản tại Quân khu 1 và 2.

Tướng Thiệu hỏi Tướng Phú sẽ làm gì để đối phó với Cộng Sản, và với hoàn cảnh hiện tại, sẽ cầm cự được bao nhiêu ngày? Tướng Phú trả lời ông xin tử thủ ở Pleiku, và sẽ chiến đấu được từ 40 đến 60 ngày. Ông nói chết ở Cao Nguyên bây giờ, cũng như chết ở Sài Gòn năm tới.

Tướng Thiệu nói:

- Tôi ra lệnh cho anh, mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay về phòng thủ miền Duyên Hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
- Lệnh này từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xưống không được biết.
- Có nghĩa là các lực lượng Địa Phương Quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh ba tỉnh Pleiku, Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng, quận trường như thường lệ.
Trong khi phòng họp im lặng, không phản ứng, Tướng Phú hỏi:
- Thưa Tổng Thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ?
- Thì cho “thằng” Cộng Sản số dân đó! (nhấn mạnh của người viết) Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ, hơn là bị kẹt quá nhiều quân trên vùng Cao Nguyên.
 
16-3-1975: Pleiku, quân dân di tản trong hỗn loạn

Trong khi Tổng Thống và Hội Đồng Tướng Lãnh đã quyết định “cho thằng Cộng Sản” hàng trăm ngàn dân chúng, từ tỉnh trưởng trở xuống, gồm cả đại diện dân cử, công chức, Địa Phương Quân và gia đình binh sĩ, thì thành phần này chưa được biết gì về số phận của mình. Tuy nhiên, nghe tin đồn, họ đã tự bảo nhau sửa soạn ra đi, mặc dù chưa biết đi đâu, và bao giờ khởi hành. Dưới đây là lời kể tại chỗ của Nguyễn Tú:

Chính Luận, số báo đề ngày Thứ Tư, 19 tháng 3, 1975 (phát hành chiều Thứ Ba 18 tháng 3) đăng bài của đặc phái viên Nguyễn Tú, nhà báo duy nhất trong làng báo quốc tế và quốc nội có mặt trong cuộc di tản lịch sử này. Sau đây là nguyên văn bài tường thuật:

Chưa bị tấn công nhưng tự liệu không thể chống giữ
8 GIỜ ĐÊM CHỦ NHẬT, KONTUM-PLEIKU BI THẢM RA ĐI
BỎ LẠI PHÍA SAU NHỮNG CỘT KHÓI, NHỮNG VÙNG LỬA
 
Bản tin này đã được đọc xen lẫn những tiếng khóc nức nở của bản báo ĐPV Nguyễn Tú.

SAIGON, 18-3.- Sáng nay bản báo phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của Quân Dân hai tỉnh Kontum-Pleiku báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm của đồng bào. Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.

Tất cả lên đường

Pleiku, 16-3.- Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku, thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về thị xã Pleiku đều xuống đường và tổ chức một “đêm không ngủ”. Không phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng trong hốt hoảng, để tiếp tục chất các hàng hoá, bàn ghế, tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: xe lam 3 bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe đốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo, trắc tơ, xe hốt rác, cả xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ, là người leo lên ngồi sẵn. Xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng. Từ trưa, các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát đã bỏ tất cả nhiệm sở, không còn thấy bóng một ai, mà hôm qua Thứ Bảy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt, các ngả ra vào thị xã Pleiku.

Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa. Tất cả mọi người đều về nhà lo việc di tản cho mình và gia đình mình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được nhanh chóng, điều hoà và hữu hiệu như trước nữa, tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Lý do là các nhân viên truyền tin cũng thay phiên nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự coi như đã tuột khỏi tầm tay chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku, các nghị viên, các Ty, Sở Trưởng hấp tấp ra vào liên miên.

Chưa bao giờ các đại diện dân cử, kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng, một dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: “bao giờ thì di tản”, và hồi mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua, thứ Bảy 15- 3.

Hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong toàn thị xã. Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố, dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp, tất tả. Ngay từ xế trưa hôm nay 16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ cuối tuần.”
 
Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình”?
 
Sáng kiến vĩ đại
 
Cuộc di tản đại quy mô của hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể coi như là “vĩ đại” ở chốn Tây Nguyên hẻo lánh nàỵ.
 
“Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã, được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước. Phải một giờ sau vụ kẹt xe này mới được giải tỏa.
 
Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên, trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ. Họ lặng lẻ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.
 
Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không (được) chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3-1975.
 
Pleiku không còn gì để cho tôi săn tin thêm nữa.
 
Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian, hay đó là những ám hiệu dục dã: “Lẹ lên!”
 
Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”
 
Đốt, phá, bỏ rơi!
 
Các kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa, ít nhất tôi cũng đếm được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau.
 
Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong Ty Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng vào mức trung bình. Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố. Quân cũng như dân y viện không còn hoạt động. Có tin là ông Trưởng Ty Ngân Khố đã được di tản bằng đường bộ như các thường dân khác trên một chiếc xe nhưng không được hưởng một sự chăm sóc cần thiết đầu tiên. Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được gì cho chính mình. Ngoài sự chịu chết đói dần mòn ngay trên giường bệnh.
 
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn tướng Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku đang chỉ huy cuộc triệt thoái lực lượng chính quy đi về hướng Nam trên quốc lộ 14. Cuộc triệt thoái được diễn ra trong vòng trật tự và có kế hoạch.
 
Trên đường nóng bỏng
 
Pleiku 17-3.- Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường. Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền tư lệnh của ướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương, đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống. Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ, bị bỏ lại sau, nhưng họ vẫn cứ cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết đêm nay họ có thể tới được Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người sẽ bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về phía Phú Bổn các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn có trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả.
 
Bi thảm quá đồng bào ơi!
 
Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị độc giả phương xa ở tại cái Thủ Đô đầy ánh sáng hiểu cho. Cho tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum – Pleiku là ở đâu mà ra và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe. Từ năm 1954 cho tới nay, chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Kontum – Pleiku để lại cho tôi một nỗi chán chường mà những hy vọng mong manh từ 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về phía Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua.
 
Dọc lộ xe tăng, đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku tới Hậu Bổn vẫn xảy ra nhiều đoạn đường kẹt xe, có thể kể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó.
 
(Còn tiếp)
 Đăng ngày Thứ Bảy, April 12, 2025
tkd Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
 
 https://nhayduwdc.org/bv/tg/2025/50namsotayVL1_2025APR12_sat.pdf
– Đinh Từ Thức
 

Frank Snepp và ghi chép về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa

 

Frank Snepp và “Decent Interval”Frank Snepp sinh ngày 3 tháng 5 năm 1943 tại Kinston, bang North Carolina của Mỹ, sau khi học xong trung học đã vào Đại học Columbia học Văn chương Anh và có bằng cử nhân vào năm 1965. Sau một năm làm việc cho hãng tin CBS News, anh trở về Đại học Columbia..Frank Snepp đã chia sẻ suy nghĩ trong ngày sinh nhật (ngày 3.5.1943) của anh cách đây 5 năm:

“Ngày hôm nay, khi bước vào năm thứ 77 của tuổi trung niên và giữa những bất ổn của đại dịch, tôi có cảm nghĩ giống như cảm nghĩ của nhiều người trong chúng tôi vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Mọi sự diễn ra như thể chúng tôi lao đi gần như mù lòa và tê liệt về phía kết cuộc không thể nào hình dung nổi, với từng mảnh rời rạc của sự khôn ngoan ước lệ mà chúng tôi còn có thể bám víu được.

Vào buổi tối 29 tháng 4 năm 1975, tôi đứng trên nóc Tòa Đại sứ Mỹ cùng với 17 người cuối cùng của phái bộ CIA. Tôi đã sống sót để sống tiếp và để cho một ngày mới lại đến, dù đã mãi mãi bị trừng phạt bởi ký ức.

4 ngày đã trôi qua từ lần kỷ niệm thứ 45 ngày di tản khỏi Saigon, nhiều người bạn cũ và tôi đã có thể hy vọng rằng chúng ta, với tư cách là một quốc gia, sẽ có đủ sức mạnh để vượt qua được thử thách, để có thể nói là mình đã gần như trở lại bình thường và khoẻ mạnh như trước kia.

Vào lúc này, tôi được an ủi rất nhiều bởi con gái tôi, bởi sự quan tâm hết mực của vợ tôi, sự gần gũi xa xôi hoặc gần của những người chị và những người em gái, một người em trai và những người bạn cũ thân yêu. Tất cả những người hậu thuẫn cho cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn của tôi sau khi rời khỏi Saigon sẽ là chứng nhân cho tinh thần bất khuất của con người”. (3.5.2020)

Frank Snepp sinh ngày 3 tháng 5 năm 1943 tại Kingston, bang North Carolina của Mỹ, sau khi học xong trung học đã vào Đại học Columbia học Văn chương Anh và có bằng cử nhân vào năm 1965. Sau một năm làm việc cho hãng tin CBS News, anh trở về Đại học Columbia, học cao học ở Trường Quan hệ quốc tế và chính sách công School of International and Public Affairs và tốt nghiệp năm 1968. Năm 1968, Philip Mosely, phó khoa trưởng School of International and Public Affairs, đã giúp Cục Tình báo Trung ương CIA tuyển dụng anh. Anh được phái sang châu Âu, trở thành chuyên gia phân tích các vấn đề của NATO và an ninh ở châu Âu, nhưng chỉ một năm sau được phái sang Việt Nam, làm chuyên gia phản gián và phân tích tình báo ở Đại sứ quán Mỹ tại Saigon.

Anh được giao nhiệm vụ hỏi cung những tù binh Cộng sản và thu thập tin tức tình báo vào thời kỳ cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chuyển sang một bước ngoặt sau những ngày Tết Mậu Thân 1968. Sau khi trở về Mỹ vào năm 1971 làm việc trong Vietnam Task Force ở tổng hành dinh của CIA, anh trở lại Việt Nam vào tháng 10 năm 1972, tiếp tục làm chuyên gia phân tích tình báo cho tới tháng 4 năm 1975, là một trong những người Mỹ cuối cùng lên máy bay trực thăng di tản khỏi Đại sứ quán Mỹ tại Saigon.

Trở về Mỹ, vào tháng 12 năm 1975, anh được tặng thưởng huy chương vì có công lao trong ngành tình báo, nhưng đến tháng 1 năm 1976, anh nghỉ việc ở CIA, cáo buộc giới lãnh đạo của CIA đã không thừa nhận những sai lầm của họ ở Việt Nam và cáo buộc Chính phủ Mỹ đã bỏ mặc số phận của nhiều người Việt đã từng hợp tác hay có mối liên hệ với người Mỹ, trong đó có người vợ Việt và đứa con nhỏ của anh đã tự sát khi anh không thể đến cứu vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975.

Năm 1977, anh cho in cuốn sách “Decent Interval” (Khoảng cách hợp lý) anh viết suốt 18 tháng dựa theo một bản báo cáo anh đã gởi cho CIA nhưng không được chấp nhận. Theo lời anh, “tôi đặt nhan đề cho cuốn sách mình viết là “Decent Interval” (Khoảng cách hợp lý) để nhắc đến sự kiện năm 1972, khi Kissinger đàm phán hòa bình, dẫn đến việc ngừng bắn, điều duy nhất ông ta quan tâm là đưa Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, thoát khỏi vũng lầy xấu hổ. Kissinger muốn phải có một khoảng thời gian coi được giữa việc rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam và chiến thắng tất yếu sẽ đến của những người Cộng sản, để Hoa Kỳ không bị đổ lỗi cho việc thất trận. Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai năm 1971 để sắp xếp cho chuyến công du bí mật của Nixon đến Trung Quốc, ông ta nói với Bắc Kinh rằng “nếu có ngừng bắn ở Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ không tái can thiệp quân sự, và chỉ cần có một khoảng thời gian hợp lý giữa cuộc ngừng bắn cho đến lúc Hoa Kỳ rút quân, và chúng tôi sẽ không quan tâm nếu đồng minh Bắc Việt của quý vị tấn công Nam Việt Nam, miễn là họ không tấn công ngay sau khi chúng tôi rút đi”. Đó là khởi đầu của lý thuyết “Khoảng cách chấp nhận được” (Decent Interval).

Sau khi cuốn sách ra mắt, Giám đốc CIA lúc ấy là Stansfield Turner đã kiện anh ra tòa về tội không tôn trọng cam kết không tiết lộ những bí mật của CIA trong thời gian công tác. Tổng thống Jimmy Carter cũng đứng về phía Giám đốc CIA, cáo buộc anh đã tiết lộ “những bí mật của quốc gia”. Phiên tòa thượng thẩm vào năm 1980 đã xử Stansfield Turner thắng kiện, toàn bộ tiền tác quyền cuốn sách “Decent Interval” là 300.000 đô la phải chuyển hết cho CIA.

Sau năm 1980, anh viết cho các báo như The New York Times, The Washington Post, Village Voice và thực hiện các chương trình truyền hình như World News Tonight (1987–1992) cho đài ABC và các chương trình cho đài CBS (2003–2005) và đài NBC. Đến cuối thập niên 1980, anh dạy môn báo chí ở Đại học California và năm 2001 cho in cuốn sách “Irreparable Harm” (Sự tồn hại không thể cứu vãn) kể về cuộc chiến pháp lý với CIA.

Trong Lời nói đầu của ấn bản năm 2002, ấn bản kỷ niệm 25 năm ngày “Decent interval” ra mắt lần đầu, Gloria Emerson, nhà báo nữ từng sang Việt Nam 2 lần (năm 1967 và năm 1970) để viết bài cho báo Times và The New York Times, đã nói về tác phẩm này của Frank Snepp: “Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam vào tháng 4 năm 1975 là một thảm họa, khi sự điên rồ của giấc mơ Mỹ về nước Việt Nam của “người Mỹ chúng ta” cũng kết thúc. Những trang sách này là lời tường thuật đầy đủ nhất về điều sai lầm khủng khiếp nhất đã xảy ra và giải thích vì sao hàng ngàn người Việt đã từng làm việc cho người Mỹ đã bị phản bội và bị bỏ lại. Graham Martin, đại sứ Mỹ tại Saigon, tin rằng điều có thể gây ra một cuộc tấn công dữ dội nhắm vào người Mỹ là một cố gắng bất ngờ để di tản. Vì vậy, ông cứ mãi do dự. Các bức điện cứ qua lại không ngớt giữa Washington và Saigon. Vị đại sứ Mỹ, chỉ huy bộ phận CIA Thomas Polgar và cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger tin rằng họ có đủ thời gian để sắp xếp mọi việc, thương thảo với Chính phủ Bắc Việt, mà chậm hiểu ra rằng tất cả đều vô ích. 2 tuần trước khi quân đội của Hà Nội chiếm được Saigon mà không gặp sự kháng cự nào, một nhân viên CIA trẻ tên Frank Snepp, chuyên gia phân tích tình báo hàng đầu ở Việt Nam, đã gặp một điệp viên mang vỏ bọc, một trong những điệp viên tài giỏi nhất. Điệp viên người Việt cung cấp cho Frank Snepp những tin tức anh sợ nhất: miền Bắc sẽ chiến đấu cho tới khi giành thắng lợi hoàn toàn và sẽ không có những cuộc thương thuyết và chính phủ liên hiệp. Polgar vẫn không tin và gạt phăng lời cảnh báo của Frank Snepp. Cuối cùng, chúng ta đã biết những điều khủng khiếp nào đã xảy ra và vì sao lại như vậy qua cuốn sách ‘Decent interval’ của Frank Snepp. Ngay cả những người chỉ trích mạnh mẽ nhất cuộc chiến tranh Việt Nam cũng không tưởng tượng nổi những điều Frank Snepp tiết lộ với tư cách là người trong cuộc. Những người Mỹ đang có quyền hành như đại sứ Martin và Polgar đã bị mê hoặc bởi ý tưởng đàm phán đang được thực hiện, đã không thể nào chấp nhận những điều Frank Snepp nói với họ. Sợ hãi và thất vọng cay đắng, Frank Snepp thử báo cáo nhanh với các nhà báo Mỹ về điều sắp sửa xảy ra, với hy vọng giới chức ở Washington sẽ lưu ý tới những bài báo của họ, thế nhưng chẳng có nhà báo Mỹ nào kể lại những điều anh đã nói với họ. Một vài nhà báo còn tranh cãi với anh, nói rằng họ có những nguồn tin tốt hơn… Bob Loomis, biên tập viên ở nhà xuất bản Random House sửa chữa trong vòng bí mật bản thảo của Frank Snepp, đã nói về cuốn sách này: “Tác phẩm này là một cột mốc đáng ghi nhớ. Tôi cho rằng nó nói về cuộc tháo chạy với sự độc đáo chưa từng thấy. Nó xát muối vào vết thương theo cách thức tốt nhất”.

Frank Snepp đã giới thiệu tác phẩm “Decent interval” của anh:

“Ngày 29 tháng 4 năm 1975, di tản khỏi Saigon. Mỗi người tự lo cho chính mình; hàng ngàn người Việt kinh hoảng, níu lấy những cánh cổng của Đại sứ quán Mỹ, van xin đừng bỏ họ lại khi những người Mỹ ra đi. Nếu có mặt ở đó ngày hôm ấy, bạn sẽ thấy giống như một đám tang trong đó tất cả những kẻ than khóc chiến đấu với nhau để tránh bị bỏ rơi bên huyệt mộ. Tôi là một trong những kẻ than khóc ấy: một nhân viên CIA và là chuyên gia phân tích tin tình báo chính ở Saigon. Tôi đã ở Việt Nam 5 năm rưỡi khi mọi sự kết thúc. Đó là một trong những thời khắc đáng hổ thẹn nhất tôi từng trải qua. Nguyên do khiến mọi chuyện kết thúc như vậy lại đúng như mong ước của nhiều viên chức người Mỹ. Rất ít người Mỹ chịu thừa nhận rằng nước Mỹ đã thua trận. Vì vậy, chúng tôi đã chờ đợi khá lâu để lên kế hoạch di tản.

Kết cuộc đã khởi đầu 2 năm về trước với hiệp định ngừng bắn do cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng Henry Kissinger dàn xếp được. Hiệp định này giúp cho người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, nhưng lại để cho 140.000 binh lính Bắc Việt ở lại miền Nam. Họ sẽ không rút đi vì chúng ta đã không đánh thắng họ. Và giờ đây, họ lại uy hiếp Chính quyền Saigon, một chính quyền tham nhũng, không hiệu quả và đầy rẫy điệp viên của miền Bắc, có lẽ có tới 1.400 người theo những nguồn tin tình báo. Một chính quyền mong manh và dễ sụp đổ chẳng khác gì một miếng phô mai của Thụy Sĩ. Năm đầu tiên của “cuộc-chiến-sau-khi-ngừng-bắn”, Quốc hội Mỹ đã gây nhiều khó khăn cho đồng minh của chúng ta khi ngưng việc ném bom ở Đông Dương và một năm sau đó, Tổng thống Nixon từ chức vì vụ Watergate. Biến cố này đã khích lệ những người Cộng sản. Họ coi Tổng thống Nixon như một gã điên có những hành động không thể lường trước được luôn làm cho họ kinh hãi. Với việc Nixon từ chức, con đường tiến về Saigon đã mở rộng trước mắt họ.

Đầu năm 1975, họ bắt đầu đánh chiếm những vùng đất gần thủ đô Saigon để thăm dò phản ứng của người Mỹ và đánh giá mức độ kiên định của Chính quyền Saigon. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu kinh hoảng và giữa tháng 3 năm 1975, chẳng báo với một ai ở Đại sứ quán Mỹ, ra lệnh rút quân khỏi 2 vùng then chốt là các tỉnh phía Bắc của miền Nam và cao nguyên Trung phần. Cuộc rút lui – nhằm mục đích bảo toàn lực lượng thiện chiến nhất và giúp ông đủ sức chống lại những kẻ mưu toan lật đổ ông – đã nhanh chóng trở thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn vì những thường dân kinh hãi đã cùng di tản với những người lính. Trong hai tuần sau đó, quân Bắc Việt đuổi theo họ đã cắt miền Nam ra làm đôi và vô hiệu hóa phân nửa quân đội Saigon. Đại sứ Graham Martin không thể tin nổi những chuyện đã xảy ra. Ông là một chiến sĩ thời Chiến tranh lạnh theo kiểu cũ. Ông đã mất một người con trai ở Việt Nam và không bao giờ muốn Saigon rơi vào tay những người Cộng sản.

Đầu tháng 4, một tháng trước khi chế độ Saigon sụp đổ, tôi báo cáo với đại sứ Martin, người đã từ lâu coi tôi như một người thân tín, về sự tan rã của quân đội chính phủ. Ông lại không tin lời tôi, quả quyết rằng Saigon vẫn còn một cơ may. Trong 4 tuần lễ sau đó, ông vẫn vững tin và thuyết phục nhiều người ở Washington tin rằng những người Cộng sản sẽ đàm phán về một cuộc ngưng bắn mới và đạt được một thoả thuận mới sẽ giữ cho miền Nam vẫn tồn tại dù thiếu đi những phần đất kém “màu mỡ”. Ông từ chối lên kế hoạch di tản sớm và nhiều người trong chúng tôi ở Đại sứ quán phải đưa những người bạn Việt Nam ra khỏi nước bằng những chiếc máy bay vận tải hàng hóa. 4 ngày trước khi Saigon sụp đổ, trong một nỗ lực xoa dịu những người Cộng sản và tạo điều kiện để tiến hành một cuộc đàm phán vào giờ chót, ông thuyết phục Tổng thống Thiệu từ chức và rời khỏi Việt Nam.

Đêm ấy, tôi lái xe chở ông Thiệu tới một căn cứ không quân bí mật ở ngoại ô Saigon để ông ta lên chiếc máy bay rời Việt Nam. Những lằn đạn loé lên trên bầu trờ đêm, tiếng súng nổ vang ở ngoại vi thành phố và lan truyền những tin đồn về một cuộc đảo chánh giống như cuộc đảo chánh đã lật đổ và giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963. Khi xuất hiện ở nơi đón mình, ông Thiệu mặc áo vest màu xám, mái tóc chải ngược về phía sau và trông ông giống một người mẫu ảnh của ấn bản ở châu Á của tạp chí Gentleman’s Quarterly. Cuối cùng, ông Thiệu đi thoát an toàn.

Nhưng những người Cộng sản không dừng bước một phút giây nào. Suốt nhiều tuần lễ qua, các thông tin tình báo cho chúng tôi biết họ sẽ không dừng bước vì bất cứ lý do gì, dù đại sứ Martin chẳng bao giờ tin. Bản báo cáo cuối cùng và có tính cách quyết định đã đến tay chúng tôi 2 tuần trước từ một nhân viên tình báo người Việt chưa bao giờ nói điều gì sai. Lần này, anh ta gặp tôi ở một nơi gần thủ đô Saigon, và sau khi uống bia – anh ta rất thích bia Budweiser – anh ta cho tôi hay những tin tức xấu nhất: những người Cộng sản sẽ chiếm được Saigon vào cuối tháng 4, đang tăng cường trọng pháo và máy bay, chẳng ngừng một lúc nào để đàm phán và dàn xếp về chính trị. Đó thật sự là những gì đã xảy ra.

Vào ngày 28 tháng 4, máy bay của Cộng sản ném bom phi trường Tân Sơn Nhứt và đêm ấy, trọng pháo nã vào ngoại ô thành phố, những tiếng nổ kinh hồn làm chúng tôi bật dậy khỏi giường. Thế nhưng đại sứ Martin vẫn còn hy vọng. Ông nghĩ là chúng tôi có thể di tản thong thả bằng máy bay và thậm chí còn không cho đốn một cái cây lớn trong sân Tòa đại sứ để có chỗ cho máy bay trực thăng hạ cánh. Đó là một sai lầm. Những đường băng của phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị phá nát và với 140.000 binh lính Bắc Việt chỉ cách Saigon 1 giờ đi xe, rõ ràng chúng tôi không còn nhiều thời gian để lãng phí.

Giữa buổi sáng ngày 29 tháng 4, Nhà Trắng đã bất chấp đại sứ Martin, quyết định cho máy bay trực thăng trên những chiếc tàu ngoài khơi thực hiện việc di tản. Tín hiệu báo cuộc di tản đã bắt đầu là bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” của ca sĩ Bing Crosby. Dù đã báo trước về kế hoạh di tản, các nhân viên ở Đại sứ quán vẫn không kịp chuẩn bị tinh thần và nhiều người trong chúng tôi vẫn không có danh sách đầy đủ với tên những nhân viên người Việt, những nhân viên và cộng tác viên đang cần di tản. Vì vậy, suốt ngày hôm đó, chúng tôi dành hết thời gian để tự cứu chính mình và giúp những người Việt may mắn bước lên một chiếc máy bay trực thăng của Mỹ hay một chiếc tàu. Ở đại sứ quán, lính thuỷ quân lục chiến Mỹ làm tất cả những gì có thể làm để đưa những người nào được đi qua cổng và gạt những người không được đi ra ngoài. Cùng lúc ấy, tàn quân của quân đội và không quân Việt Nam Cộng hòa lao về phía người Mỹ, bỏ lại những chiếc tàu và máy bay dưới biển để lên những chiếc tàu của Mỹ. Đến giữa trưa, khuôn viên Đại sứ quán Mỹ đầy những người Việt tuyệt vọng muốn di tản trên những chiếc máy bay trực thăng đậu trên nóc Đại sứ quán hay trong sân đã đốn bỏ cái cây lớn. Tôi đi giữa họ, đưa nước uống và nói những lời khích lệ mà tôi biết là vô ích. Có lúc cánh quạt của một máy bay trực thăng hạ cánh làm tung bay những tài liệu mật chất trong những túi xách để trên sân và những tờ giấy bay lả tả rồi xuống những ngọn cây.

Sau này, những người Cộng sản sẽ dùng những tài liệu mật và những file bị bỏ lại này để biết ai là những người cộng tác với người Mỹ đã bị bỏ lại. Khi tiến độ của cuộc di tản bằng trực thăng đưọc đẩy nhanh hơn, có nhiều người Việt hơn muốn di tản trên nóc của đại sứ quán. Những tiếng nổ làm cho toà nhà rung chuyển và thỉnh thoảng có tiếng lưu đạn nổ khi nhân viên Đại sứ quán phá huỷ các thiết bị.

Thỉnh thoảng tôi dừng chân ở phòng điện đài của CIA để nghe qua radio tiếng kêu thất thanh của những nhân viên người Việt tuyệt vọng kêu cứu qua điện đài, van xin đừng bỏ họ ở lại. Vài người lên được những chiếc máy bay trực thăng mà tôi và các nhân viên CIA khác phái tới, nhưng nhiều người đã bị lãng quên. Một phụ nữ với một đứa con mà nàng nói là con của tôi nói nàng sẽ tự sát nếu tôi không đến giải cứu. Tôi nói nàng gọi lại sau 1 tiếng nữa, nhưng lát sau, khi nàng gọi lại, tôi đang ở tầng dưới báo cáo tình hình cho đại sứ Martin một cách vô ích, và nàng đã giữ đúng lời hứa, thêm hai cái chết nữa vào nhiều cái chết đã làm trĩu nặng tâm tư của tôi. Khi đến lúc tôi phải rời đi đêm ấy cùng với những người còn lại của phái bộ CIA, chúng tôi phải đẩy những người Việt ra khỏi hành lang khi lên nóc đại sứ quán để bước lên máy bay trực thăng. Tôi không dám nhìn vào mắt họ. Rút lui là chiến thuật quân sự khó khăn nhất. Vì danh dự, chúng ta không được bỏ rơi những người bạn của mình ngoài trận tuyến.

Trong cuộc di tản khỏi Saigon, phân nửa số người Việt thoát đi được chẳng nhận được sự trợ giúp nào của chúng tôi cho đến khi họ đã đi thật xa trên biển. Bức điện cuối cùng phái bộ CIA gởi đi từ đại sứ quán có nội dung: “Hy vọng chúng ta sẽ không để cho lịch sử lặp lại. Đây là phái bộ Saigon chấm dứt liên lạc”.

Comment của anh Frank Snepp trên bài đăng vào ngày 27.4.2021: “There has been much speculation about the gold. Polgar told me that Thieu would be taking some of his own gold with him and that reasonable projection framed my impression of what was in the suitcases, though I did not examine the contents obviously on the night I delivered Thieu to Tan Son Nhut. The CIA did have reports of Theiu and others shipping personal gold stores out on an Air Vietnam flight and by other means. There is also the complicated story of what happened to gold reserves in the national treasury. Ambassador Martin wanted it shipped out but ultimately came to a mutual understanding with acting president Huong and the president in waiting, Big Minh, to leave it in country as another inducement for the North Vietnamese to negotiate their way into Saigion, rather than seize Saigon by force as our best spy, Vo Van Ba assured us (and me personally on April 17) they would do. Much of the embassy documentation that would help clarify things was destroyed or lost in the chaos of the evacuation. Martin carried some files out with them and then stole them from the State Department when he retired. He later lost them to car thieves in North Carolina. The FBI recovered some of them and kept them hidden away in an evidentiary storeroom in Charlotte for many years. Some have made their way to the LBJ library and the Ford archives. But they are woefully incomplete”

 

HUỲNH DUY LỘC

Ảnh: Frank Snepp, khi nhận huy chương do Giám đốc CIA William E. Colby trao tặng, ấn bản năm 2002 của tác phẩm “Decent interval” và tác phẩm “Irreparable harm”

Nguồn: https://nhinrabonphuong.blogspot.com/2025/04/frank-snepp-va-ghi-chep-ve-nhung-ngay.html

.

.

Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!